Ai bảo chăn trâu là khổ?
|
Chăn trâu Tranh của họa sĩ Thái Tuấn |
Trong khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở nước ta có một thế hệ học trò tiểu học ai cũng thuộc lòng bài đoản văn trong sách Quốc văn giáo khoa thư nhan đề Ai bảo chăn trâu là khổ? Nói thuộc lòng nghĩa là từ thuở ấu thơ cho đến khi tóc bạc, bài học ấy vẫn thấm sâu trong lòng. Cho đến thời kháng chiến chống Mỹ, bài học ấy vẫn còn được nhà thơ Giang Nam bồi hồi nhắc lại:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao...
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã mở đầu bài Em bé quê bằng lời hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ... Cả trong hội họa, ta cũng bắt gặp hình ảnh rất thảnh thơi qua bức tranh Chăn trâu của Thái Tuấn.
Trong lịch sử, có không ít người chăn trâu thành đạt. Thời Đông Châu liệt quốc ở Trung Hoa có ông Ninh Thích có tài vương tá nhưng chưa gặp minh quân nên phải đi chăn trâu để chờ thời. Vua Tề Hoàn Công ban ngày mới gặp Ninh Thích ngồi ca hát trên mình trâu, ngay tối hôm đó đã thắp đuốc mang áo mão đến phong tước cho Ninh Thích để tỏ lòng chiêu hiền đãi sĩ. Ở nước ta thì:
Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh
Con quan thứ sử ở thành Hoa Lư
Khác thường từ thuở còn thơ
Rủ đoàn mục tử phất cờ bông lau
Dập dìu kẻ trước người sau
Trần ai đã thấy công hầu uy dung...
(Việt Nam quốc sử diễn ca)
Ông Đào Duy Từ cũng có hoàn cảnh giống ông Ninh Thích. Ông quê ở Thanh Hóa, là người có tài lớn nhưng ở Đàng Ngoài không được trọng dụng bèn trốn vào Đàng Trong phò chúa Nguyễn. Lúc mới vào, ông phải chăn trâu cho một điền chủ ở Bình Định, về sau được một vị đại thần là Trần Đức Hòa gả con gái cho rồi tiến cử với Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi). Chúa gặp được ông, rất vừa ý, phong tước Hầu, trao ngay trọng chức coi việc quân cơ. Ông đã để lại trên đất Quảng Bình hai công trình xây dựng là lũy Thầy và lũy Trường Dục; để lại cho người dân Bình Định truyền thống nghệ thuật hát bội và để lại trong văn học sử hai bài phú là Ngọa long cương vãn và Tư dung vãn.
Trong sử sách Trung Hoa, có hai người thường cưỡi trâu nhưng không chăn trâu: Đó là Tôn Tẩn và Lão Tử. Tôn Tẩn là cháu nội Tôn Võ Tử, nhà quân sự lừng danh người nước Tề. Ông cùng Bàng Quyên theo học thầy Quỷ Cốc Tử nhưng sau khi xuống núi, Tôn Tẩn bị Bàng Quyên mưu hại, chặt hết cả hai bàn chân. Không có bàn chân thì không thể cưỡi ngựa được nên Tôn Tẩn phải cưỡi trâu ra trận phá giặc. Thế mà trận nào cũng thắng, giết được Bàng Quyên. Chuyện cưỡi trâu của Tôn Tẩn có dụng ý cho thấy rằng người có tài đại tướng thì cái tài nằm ở mưu lược trong đầu óc chứ không phải nằm ở sức mạnh tay chân của kẻ dõng phu.
Còn Lão Tử cũng là người sống cùng thời đại với Khổng Tử. Nhưng nếu đạo Nho của Khổng Tử được xem là kim chỉ nam của giai cấp thống trị thì ngược lại, Lão Tử rất đối lập với giai cấp thống trị, coi việc thuế má như nạn trộm cướp, coi của cải như nguồn gốc của chiến tranh loạn lạc. Ông chọn con trâu làm phương tiện đi lại, hẳn có ý cho thấy mình không có nhu cầu giao du với giới quan quyền.
Đạo Phật nghiên cứu rất kỹ việc chăn trâu, từ đó rút kinh nghiệm để giúp con người tu tâm dưỡng tính. Phái Thiền tông thường dùng 10 bức tranh chăn trâu gọi là Thập mục ngưu đồ để hướng dẫn phép tu dưỡng này. Tương truyền, tác giả bộ tranh quý này là đại sư Khuếch Am Sư Viễn đời Tống xuất hiện từ năm 1150 rồi thất truyền, đến năm 1460 mới được tái hiện trong bộ sưu tập tranh của họa sĩ người Nhật là Châu Văn. Bản gốc là tranh đen trắng, sau này có người phỏng theo đó vẽ lại thành mười bức tranh màu nước tuy rất bắt mắt nhưng ý tứ không sâu sắc bằng. Mười bức tranh có tên như sau: 1) Tìm trâu; 2) Thấy dấu; 3) Thấy trâu; 4) Được trâu; 5) Dắt trâu; 6) Cưỡi trâu về nhà; 7) Quên trâu còn người; 8) Người và trâu đều quên; 9) Trở về cội nguồn; 10) Thõng tay vào chợ.
Con trâu trong Thập mục ngưu đồ là con trâu ảo nhưng chăn dắt không dễ dàng chút nào. Chỉ khi đã thuần phục được con Ngưu ma vương trong tâm tính của mình thì mới có thể thõng tay vào chợ mà không sợ lấm bụi trần nhơ.
|
Lão Tử cởi trâu |