CLB Truyền thống http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Category/660 CLB Truyền thống http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16696 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16696 CLB Truyền thống “Sống lại” đêm văn nghệ Quang Trung Ban Thường vụ Thành Đoàn phối hợp với CLB Truyền thống Thành Đoàn tổ chức tái hiện chương trình “Đêm Văn nghệ Quang Trung”, gồm những tác phẩm sử ca, kháng chiến ca, tranh đấu ca được trình diễn hoành tráng đầy màu sắc và khí thế hào hùng của tuồi trẻ Sài Gòn trong mùa xuân lịch sử 1968. Tue, 05 Feb 2013 16:46:14 +0700
 “Sống lại” đêm văn nghệ Quang Trung
 
Thực hiện chỉ đạo của Thành đoàn, các tổ chức công khai của Thành Đoàn như Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Đoàn Văn nghệ Học sinh sinh viên Sài Gòn, Đoàn văn nghệ Bừng Sáng và Ban đại diện các trường Trung đại học đã tổ chức đêm văn nghệ “Kỷ niệm Vua Quang Trung đại phá quân Thanh Tết Kỷ Dậu năm 1789”, lấy tên “Đại hội Văn nghệ Sinh viên học sinh mừng Tết Quang Trung” (Đêm Văn  nghệ Quang Trung) vào ngày 26/1/1968.  Đêm văn nghệ Tết Quang Trung đã quy tụ hàng ngàn sinh viên học sinh nhằm tập hợp lực lượng quần chúng chuẩn bị nổi dậy phối hợp lực lượng vũ trang trong chiến dịch Mậu Thân. Đây chính là một hình thức diễn tập đầy sáng tạo, một đòn tiến công chính trị ngoạn mục, bất ngờ  trước cuộc tập kích chiến lược mùa xuân 1968.
 
Kỷ niệm 45 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, nhằm ôn lại truyền thống hào hùng của thế hệ Thành Đoàn, ngày 01/02/2013, Ban Thường vụ Thành Đoàn phối hợp với CLB Truyền thống Thành Đoàn tổ chức tái hiện chương trình “Đêm Văn nghệ Quang Trung”, gồm những tác phẩm  sử ca, kháng chiến ca, tranh đấu ca được trình diễn hoành tráng đầy màu sắc và khí thế hào hùng của tuồi trẻ Sài Gòn trong mùa xuân lịch sử 1968.
 
Phát biểu trong Đêm hội Quang Trung, đồng chí Lê Quốc Phong, Bí thư Thành Đoàn nhấn mạnh: “Nhằm kế thừa, giữ gìn và phát huy di sản truyền thống cách mạng của tuổi trẻ Sài Gòn - Gia Định - TP. Hồ Chí Minh, tôi tin rằng chương trình tái hiện Đêm Văn nghệ Quang Trung sẽ nối kết lý tưởng cách mạng của các thế hệ thanh niên, trau dồi lòng yêu nước, hoài bão phấn đấu cho một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
 
Tiết mục Hát từ đồng hoang do các cô chú trong CLB Truyền thống biểu diễn
 
 Hát cho dân tôi nghe, Đêm hồng,... những bài hát hào hùng ý chí quật khởi đã từng chiếm trọn trái tim của các thế hệ sinh viên học sinh
 
Chương trình Đêm hội Quang Trung làm sống dậy lửa nhiệt huyết của các thế hệ học sinh, sinh viên,...
 
 
Tiếng trống hào hùng - Tiếng trống hào hùng ấy không chỉ là nhiệt huyết đang sục sôi tuôn chảy trong bao người dân nước Việt, đó còn là hồi kèn xung trận, thúc giục những bàn tay xiết chặt, những đôi chân vượt lên bom đạn, chuẩn bị cho một trận quyết chiến. 
 
 
 Tất cả, để có một ngày hòa bình, và non sông nước biếc nối liền một dải. Và nguyện vọng thiết tha ấy đã được gởi gắm trong những khúc ca mơ ngày thống nhất, toàn dân hát khúc khải hoàn…
 
 
 
Những trang sử đấu tranh hào hùng của những người đi trước đang được tiếp nối bằng những thành tích trong học tập, nghiên cứu khoa học, cùng nhiều lĩnh vực khác của các thế  hệ học sinh sinh viên hôm nay. “Kết liên lại thanh niên chúng ta cùng nhau đi lên”, đó không chỉ là lời hứa, mà chính là hành động của tuổi trẻ: dấn thân vì quê hương.
 
H.Đ.N.T
 
 
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2013/2/16696/DSC_0365.JPG 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16627 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16627 CLB Truyền thống Về nguồn, thăm căn cứ cách mạng Thành Đoàn nhân dịp Xuân Quý Tỵ Ngày 19/1/2013, Ban Thường vụ Quận Đoàn Bình Thạnh phối hợp Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn, Đoàn Trường Đại học Kinh tế - Luật (ĐHQG-HCM), Đoàn Trường Cao đẳng kỹ thuật Lý Tự Trọng tổ chức chương trình “Về nguồn, thăm lại căn cứ cách mạng Thành Đoàn nhân dịp Xuân Quý Tỵ năm 2013” tại Xã Phước Lâm – Huyện Cần Giuộc – Tỉnh Long An. Mon, 28 Jan 2013 10:00:09 +0700
 Về nguồn, thăm căn cứ cách mạng Thành Đoàn nhân dịp Xuân Quý Tỵ 

Ngày 19/1/2013, Ban Thường vụ Quận Đoàn Bình Thạnh phối hợp Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn, Đoàn Trường Đại học Kinh tế - Luật (ĐHQG-HCM), Đoàn Trường Cao đẳng kỹ thuật Lý Tự Trọng tổ chức chương trình “Về nguồn, thăm lại căn cứ cách mạng Thành Đoàn nhân dịp Xuân Quý Tỵ năm 2013” tại Xã Phước Lâm – Huyện Cần Giuộc – Tỉnh Long An.
 
Các cô chú giao lưu với người dân tỉnh Long An

Trong không khí ấm áp của những ngày đầu xuân, các cô chú gia đình có công nuôi dưỡng cán bộ Thành Đoàn cùng các bạn đoàn viên thanh niên đã có một buổi giao lưu đầy ý nghĩa và xúc động. Cô Tư Kiên, thành viên CLB Truyền thống Thành Đoàn cho biết “Được về thăm căn cứ cũng như về lại quê hương mình, chúng tôi vô cùng xúc động, bùi ngùi; bằng tình cảm của các người con, người cháu, chúng tôi xin dành cho xã  Phước Lâm – đơn vị anh hùng và các má, các chú, các anh chị của mình, các gia đình cơ sở những tình cảm thân thương nhất của chúng tôi...chúng tôi sẽ quyết tâm giữ gìn truyền thống, giữ gìn quê hương, đất nước”. Tại buổi lễ CLB Truyền thống Thành Đoàn đã gửi tặng Ủy ban Nhân dân xã Phước Lâm cuốn sách “ Đội thanh niên cận vệ Sài Gòn” của lực lượng võ trang Thành Đoàn biên soạn. 
 
Đoàn tặng quà cho học sinh khó khăn

Tại chương trình, đồng chí Bạch Ngọc Hoàng - Chủ tịch UBND Xã Phước Lâm giới thiệu về lịch sử truyền thống của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Phước Lâm - Đơn vị được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
 
 
Thăm hỏi và tặng quà tết cho người dân vùng căn cứ của Thành Đoàn

Nhằm tri ân các cô, chú thuộc Câu lạc bộ truyền thống cách mạng của xã đã không quản ngại khó khăn, có công nuôi dưỡng và chăm lo cán bộ Thành đoàn trong thời kỳ kháng chiến cứu nước tại buổi lễ các bạn đoàn viên thanh niên đã thăm hỏi và tặng 19 phần quà cho 19 gia đình có công nuôi dưỡng các bộ Thành Đoàn trong thời kỳ kháng chiến (mỗi phần quá trị giá 800.000 đồng) và trao 10 suất học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn tại xã (với mỗi suất trị giá 300.000 đồng).

Ngoài ra các bạn đoàn viên, sinh viên cùng các cô, chú trong Câu lạc bộ truyền thống của Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đến tham quan ngôi nhà cỗ của Dì Mười và thắp hương tại khu di tích gò Bà Sáu Ngọc - nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Long An.

Chương trình đã thật sự mang lại nhiều hiệu quả và ý nghĩa, giúp các bạn đoàn viên thanh niên có cơ hội giao lưu, chia sẻ và hiểu hơn về các cô chú thế hệ trước – thế hệ đã sống hết mình cho cách mạng, cho quê hương đất nước, qua đó đã góp phần giáo dục hiệu quả cho các bạn đoàn viên thanh niên về truyền thống lịch sử, giúp các bạn thêm yêu quê hương đất nước, tự hào dân tộc. 

 
PHÁT LỢI
 
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2013/1/16627/Tang qua.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16128 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16128 CLB Truyền thống Căn cứ Phước Vân – Long Khê, cánh thanh niên công nhân lao động (1964 – 1968) Sau năm 1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ thay bằng những tên tay sai mới. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi và không tránh khỏi những tổn thất về tổ chức và con người dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, tổ chức cách mạng Học sinh - Sinh viên vẫn ngoan cường tồn tại và mở rộng, quần chúng thanh niên, nhất là Học sinh - Sinh viên ngày càng giác ngộ và hành động quyết liệt hơn. Tue, 09 Oct 2012 14:40:46 +0700
Căn cứ Phước Vân – Long Khê, cánh thanh niên công nhân lao động
(1964 – 1968)

Sau năm 1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ thay bằng những tên tay sai mới. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi và không tránh khỏi những tổn thất về tổ chức và con người dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, tổ chức cách mạng Học sinh - Sinh viên vẫn ngoan cường tồn tại và mở rộng, quần chúng thanh niên, nhất là Học sinh - Sinh viên ngày càng giác ngộ và hành động quyết liệt hơn. Phong trào phát triển mạnh mẽ tổ chức, lực lượng tất yếu phát triển tương ứng, đặc biệt là vào những năm 1965-1966, khi Mỹ đưa quân vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam, đòi hỏi sự chỉ đạo, lãnh đạo và tác chiến của các đơn vị (hay gọi tắt là các cánh) phải năng động, nhanh nhạy, kịp thời. Nhu cầu phát triển căn cứ địa phương phục vụ cho phong trào tổ chức hết sức cấp bách, trong khi các căn cứ chính, gốc ở Củ Chi ngày càng khó khăn, bị động về nhiều mặt. Thành ủy và Khu Đoàn có chủ trương chỉ đạo các cánh, các bộ phận đi xây dựng căn cứ mới cho chính bộ phận, đơn vị mình trước yêu cầu của tình hình chuyển biến mới.

Chấp hành sự chỉ đạo, khoảng cuối năm 1964, cánh Thanh niên công nhân lao động cử 3 đồng chí Nguyễn Văn Ly (Hai Nhân, Tư Kết), Nguyễn Văn Y (Út Thống) và Nguyễn Văn Bình (Năm Trọng) lên đường đi xây dựng căn cứ ở hướng tỉnh Long An. Từ Củ Chi về căn cứ dã chiến xã Hưu Thạnh Thượng (Đức Hòa, Long An) tạm trú tại căn cứ S36, bên bờ kênh Lý Văn Mạnh - Vườn Thơm, 3 đồng chí vượt cánh đồng hoang hóa vì bom đạn của xã Thanh Hà, qua Mỹ Yên (quận Bến Lức, Long An), vượt quốc lộ 4 (đi Miền Tây, nay là quốc lộ 1A) tại cung đường thuộc xã Phước Lý (Long An), băng qua địa phận xã về đến Ngã Tư An Thuận, xã Phước Vân, liên hệ ngay với huyện ủy Huyện Cần Đước: bắt đầu những chuỗi ngày xây dựng căn cứ tại hai xã Phước Vân và Long Khê.

Cũng xin nói chút ít vì sao có việc phát hiện và xây dựng căn cứ tại các xã này. Bởi đó là quê của đồng chí Đỗ Đăng Đằng, một cán bộ học sinh từ thời 1954-1960, sau được chuyển về cánh Thanh niên công nhân lao động. Tổ chức cử đồng chí Hai Nhân đi công khai nghiên cứu thực địa, được chấp thuận, đồng chí cùng đồng chí Năm Trọng và đồng chí Út Thống, lúc đầu dưới danh nghĩa đi xây dựng căn cứ cho bộ phận võ trang Khu Đoàn (đội 9-1). Về sau (khoảng 1965) đồng chí Hai Nhân, Năm Trọng về công tác trong ban vận động Thanh niên công nhân lao động (tiền thân của cánh Thanh niên công nhân lao động) nên căn cứ Phước Vân - Long Khê nghiễm nhiên thành căn cứ của cánh Thanh niên công nhân lao động.

Cùng đi xây dựng căn cứ lần này có đoàn của Khu ủy do đồng chí Ba Tôn (Nguyễn Văn Thuyền), Khu ủy viên, lãnh đạo; đồng chí Năm Hoàng là cán bộ căn cứ. Bí thư huyện ủy Cần Đước là đồng chí Bảy Nguyễn, Tỉnh ủy viên đã hết sức giúp đỡ, hỗ trợ các đoàn xây dựng căn cứ. Đoàn của cánh Thanh niên công nhân lao động được Thường vụ huyện ủy giới thiệu đến chi bộ các xã Phước Vân, sau đó mở rộng ra, đến các chi bộ xã Long Khê, Long Trạch, Phước Lý… là những xã giải phóng và nửa giải phóng, có phong trào và lực lượng mạnh; có đường giao thông liên lạc, đi lại, cơ sở hậu cần tiếp tế thuận tiện.

Tại xã Phước Vân, đoàn đã xây dựng căn cứ tại ấp "1", sau đó thêm ấp "2"; tại xã Long Khê đoàn lập căn cứ tại ấp "4"; xây dựng bàn đạp các xã chung quanh (Long Hiệp, Long Trạch, Phước Lý,…). Bàn đạp là nơi tiếp giáp giữa vùng ta và vùng địch (vùng độn), nơi chuyển đổi từ thế bất hợp pháp thành thế hợp pháp và ngược lại, cho cán bộ, khách và giao liên ra vào hai vùng. Tại các xã thuộc vùng thượng huyện Cần Đước này nhân dân còn giữ được thế hợp pháp đối với địch. Việc đi lại giữa nhân dân hai vùng gần như bình thường, dù vẫn chịu sự kiểm soát, khám xét gắt gao. Tại Phước Vân ta xây các bàn đạp ở khu vực cầu Bà Bắc (cầu ranh giới giữa xã Phước Vân và Phước Lợi) và tại xã Long Hiệp. Cả hai bàn đạp này đều ra quốc lộ 4. Tại Long Khê ta xây các bàn đạp tại xã Long Trạch, ra Cầu Tràm về thị trấn Bình Chánh và xã Phước Lý theo lộ chính của xã ra quốc lộ 4. Nói chung có 4 ngã chính và một số ngã phụ băng đồng ra quốc lộ 4 về Sài Gòn. Từ chiếu tối anh em có thể ra gần quốc lộ 4 nhìn các loại xe xuôi ngược, pha đèn sáng quắc, nhớ về Sài Gòn, mơ ước ngày về vinh quang.

Xã Phước Vân, theo hành chánh Ngụy, là một xã thuộc quận Gò Đen, tỉnh Long An. Ngoài quốc lộ vào phải qua xã Phước Lợi, theo đường đá đỏ mới về Phước Vân, Long Khê là hai xã giáp ranh, chỉ cách Sài Gòn khoảng trên 30 cây số.

Phước Vân là một xã giải phóng từ năm 1963 nhưng nằm trong vùng xung yếu của chiến trường Long An. Nơi đây đã có chi bộ, có lực lượng du kích, lực lượng huyện, thỉnh thoảng chủ lực tỉnh cũng về trú quân. Xã đã thành xã chiến đấu, phá đường, đào hầm - hào, dựng hàng rào, đắp đê, các vuông tre, bụi tre, bờ tre là các ổ chiến đấu đều có đặt mìn, gài trái… Phải với lực lượng cở 2 tiểu đoàn, có máy bay, xe lội nước yểm trợ, quân ngụy mới có thể vào đến trung tâm xã (ngã tư An Thuận). Mặc dù dọc theo lộ 4, nhất là tập trung từ ngã ba Long Hiệp đến ngã ba Gò Đen, lúc nào cũng đầy dẩy, tràn ngập các lực lượng biệt động quân, lính sư đoàn, lính bảo an, cảnh sát, công an, mật vụ,… nhưng địch cũng ít tiến hành các cuộc hành quân vì ngại thương vong. Mãi đến những năm 1968 - 1969, với sự tham chiến của quân Mỹ, cùng với các chương trình “bình định trọng điểm”, rồi “trọng điểm của trọng điểm”, quân ngụy mới tái chiếm các xã giải phóng của ta trong khu vực này.

Phải nói rằng, bất cứ nơi nào, vùng nào trong cuộc kháng chiến cực kỳ khốc liệt này đều có muôn vàn khó khăn từng ngày, từng giờ của riêng mình, nhưng chi bộ các địa phương được Thường vụ huyện ủy Cần Đước giới thiệu đoàn đến, các đồng chí lãnh đạo tại đây đều vui vẻ và nhiệt tình đón tiếp, thể hiện rõ tính chất độc đáo của chiến tranh nhân dân, của sự lãnh đạo trên - dưới một lòng, biểu hiện rõ sức mạnh của một Đảng lãnh đạo cách mạng. Đây cũng chính là bài học vô giá người ngày nay phải học.

Tại Phước Vân, đoàn được sự giúp đỡ tận tình của chi ủy xã và đồng chí Bí thư Chi bộ Ba Hưu (Đào Văn Hữu). Đoàn được hướng dẫn về ấp “1” liên hệ với đồng chí Bí thư ấp Tư Nghệ để lập căn cứ. Ấp “1” Phước Vân nằm dọc theo con rạch Phước Vân chảy qua các xã Long Khê, Phước Lợi, Phước Vân, Long Hiệp,…đến Bến Lức, là ranh giới tự nhiên giữa các xã, hai bên bờ um tùm rặng dừa nước, ô rô, cây bần, các bụi cây không biết tên đầy gai gốc… là địa hình rất tuyệt. Quân địch ít khi dám đến gần “đám lá tối trời” âm u, bí hiểm này, nó là bức tường thiên nhiên che giấu, bảo vệ không biết bao nhiêu con người kháng chiến, trong một cuộc chiến không cân sức. Chính vì lợi thế thiên nhiên đó việc xây dựng căn cứ tại ấp “1”, Phước Vân, lúc đầu không cần phải làm hầm bí mật mà chủ yếu là công tác quần chúng nhân dân tại đây “hầm bí mật” trong lòng dân. Lúc đầu đoàn đóng căn cứ trong nhà anh, chị Tư Nghệ và nhà ông xã Bàn. Nhà ông xã Bàn là nhà lai, kiên cố lớn nhất xã Phước Vân khiến nhiều người mới ngạc nhiên. Chiều về, không gian, cảnh vật yên tĩnh, gió thổi mơn man, ruộng lát xào xạt, tiếng dệt chiếu lộc cộc, lộc cộc thật thanh bình, thơ mộng làm người chiến sĩ tạm thời quên đi những nỗi nhọc nhằn, nguy hiểm của chiến trường đô thị ác liệt, về đây thở không khí tự do, giải phóng, phấn khích lòng người.

Căn cứ Phước Vân mở rộng đến gia đình chị Ba Ở, ba má Năm Tiên (ba Năm Tiên còn được gọi là ông già Trung ương, vì sau khi làm một xị thì ba đi họp Trung ương về để bảo ban các con), nhà ông Bảy Mù (ông bị khiếm thị, giàu lòng yêu nước, gọi riết nên không biết tên thật của ông), nhà má Hai Nghiêm (còn gọi là má Hai Tôn Tẩn), nhà ba má Năm Tranh, anh Ba Bớt…; bàn đạp có nhà bác Bốn Ngôn, chị Ba Hưu, anh Bảy Giai, chị Tư Mùi… Về sau còn phát triển sang ấp 2 (ấp Truy Lộc) đóng tại nhà chú Tư Trần… Một mạng lưới cơ sở vùng căn cứ Phước Vân phục vụ mọi yêu cầu hoạt động chính trị - vũ trang trong lòng thành phố Sài Gòn - Gia Định của Cánh Thanh niên công nhân lao động đạt hiệu quả cao.

Từ ngày bắt đầu xây dựng, năm 1965, trải qua các năm 1966, 1967 căn cứ Phước Vân đã dần hoàn chỉnh về các mặt: tổ chức nơi đóng quân an toàn cho cán bộ, chiến sĩ vùng B (*) ăn, ở, phục vụ các đồng chí vùng A (*) về làm việc, hội họp, học tập. Cán bộ chiến sĩ đội võ trang Nguyễn Văn Trỗi về luyện tập, lên sa bàn các trận đánh địch tại Sài Gòn - Gia Định. Tổ chức giàn giao liên vận chuyển tài liệu, vũ khí, đưa đón cán bộ, khách…; tổ chức bố phòng an ninh chống giặc càn quét đột kích, chống gián điệp… Căn cứ đã phát huy tác dụng tốt, góp phần vào thành tích công tác, tấn công địch trên các mặt trận chính trị, vũ trang tại Sài Gòn - Gia Định.

Từ năm 1968 một năm lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Miền Nam và cũng là năm đặc biệt riêng, không thể nào quên của căn cứ Phước Vân. Tại đây đã chứng kiến cảnh ra quân hùng tráng của cán bộ chiến sĩ các đơn vị công tác thành của Sài Gòn - Gia Định. Các căn nhà căn cứ, nhà nhân dân tại ấp 1 kéo dài đến chân cầu Bà Đắc (cầu cửa ngõ của xã), rầm rập lên đường tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân. Gần 200 cán bộ chiến sĩ mới, cũ các đơn vị của Thành ủy, Công vận, Thành Đoàn, các Đội Võ trang Biệt động Thành họp mittinh bên chân cầu đêm 29 Tết lịch sử, một ngày bằng 20 năm. Từng loạt súng nổ chào mừng năm mới, chào mừng Cách Mạng đang sang trang, đoàn quân chia nhau vượt lộ 4 về Vĩnh Lộc, Bình Trị Đông, các vùng ven quận Bình Chánh tràn về quận 6, 10, 11; hoặc vượt lộ Cần Giuộc, cầu Ông Thìn về các quận 7, 8 tiến vào Chợ Lớn… Tết Mậu Thân nổ ra như  trời long đất lở trước một kẻ địch có hàng triệu quân. Quân ta trên toàn miền từ Quảng Trị, Huế, Sài Gòn đến mũi Cà Mau thắng lớn nhưng không dứt điểm được chính quyền miền Nam.

Sau đợt một Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Mậu Thân các lực lượng quân sự - chính trị của ta phải rút về các căn cứ, củng cố rút kinh nghiệm chuẩn bị cho đợt sau. Các ban chỉ huy quân sự chủ lực miền, Quân khu 4, Biệt động Thành, các đơn vị của Thành ủy lùi ra xa nội thành, về bên kia sông Vàm Cỏ… Các đơn vị của Thanh niên công nhân lao động và Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi lại lùi về Phước Vân. Đến tháng 3/1968 có thêm bộ phận lãnh đạo của Thành Đoàn (do đồng chí Tư Liêm phụ trách căn cứ) cũng về đóng quân ở Phước Vân, chia nhau căn cứ của Thanh niên công nhân lao động. Tất cả các đầu mối công tác nội, ngoại thành đều tập trung về đây.

Chuẩn bị cho đợt 2 Tổng công kích 1968, Ban chấp hành Thành Đoàn về hội nghị tại căn cứ Phước Vân, sắp xếp lại tổ chức chủ trương tập trung các cán bộ cốt cán của các bộ phận Thành Đoàn về thành lập các Liên phường (do các Liên Phường ủy phụ trách) tại các khu vực địa bàn chuẩn bị khởi nghĩa gồm: Liên Phường 1 khu vực tỉnh Gia Định (Bí thư: đồng chí Tám Võ, tức đồng chí Trân Hữu Phước); Liên Phường 3 khu vực Hòa Hưng - Lê Văn Duyệt - Nguyễn Thông do đồng chí Phạm Chánh Trực (Năm Nghị) là Bí thư Liên Phường ủy, Phó Bí thư đồng chí Nguyễn Văn Bình (Năm Trọng), Đảng ủy viên đồng chí Võ Văn Thôn (Mười Thôn). Về sau Liên Phường 3 chia thành; Liên Phường 3A (*) (có đồng chí Ba Xích về thay đồng chí Năm Trọng vừa bị địch bắt) và Liên Phường 3B phụ trách khu vực Trương Minh Giãng nối dài do đồng chí Chín Kế, Bí thư Liên Phường và hai đồng chí Mười Thôn, Năm Xuân; Liên Phường 6 khu vực Quận 11, 6 do đồng chí Sáu Vĩnh là Bí thư Liên Phường. Cả 4 Liên Phường đã phát huy tác dụng trong đợt 2 Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Mậu Thân.

Cùng với công tác tổ chức chuẩn bị cho đợt 2 nói trên, Ban chấp hành Thành Đoàn đã tiển 50 cán bộ, chiến sĩ thanh niên ưu tú, rút từ các đơn vị quân sự, chính trị của Đoàn, lên đường gia nhập lực lượng Biệt Động Thành (Quân khu Y4). Đoàn lên đường gồm các đồng chí cán bộ - chiến sĩ: Tư Nghĩa (Đại đội bậc trưởng), Ba Chiến, Hai Dũng, Út Tâm. Ba Thu, Tám Tân, Chín Linh, Út Thành (Lê Công Thành), nữ đồng chí Thu An, Thu Vân, các em Quyết, Tiến và nhiều đồng chi khác. Các đồng chí Ba Phong, Hai Tâm (Biệt động Thành) đã về Phước Vân nhận quân. Các cán bộ - chiến sĩ Thành Đoàn đã chiến đấu anh dũng trong hai đợt Mậu Thân (đợt 2 và 3/1968). Trong đội ngũ Biệt động Thành, một số đồng chí đã anh dũng hy sinh như trường hợp của đồng chí Thu Vân. Đồng chí đã ngã xuống trên cánh đồng xã Mỹ Hạnh khi đưa một đơn vị chủ lực quân khu tiến vào Sài Gòn đợt 2 Mậu Thân. Ngày 04/5/1968, giặc đánh vào xã và đội hình của tiểu đoàn. Giao tranh diễn ra rất ác liệt, phá bắn cấp tập vào đội hình ta, đồng chí Thu Vân, cùng nữ đồng chí Chín Phương hy sinh khi lấy thân mình che đạn pháo cho em Phan Kiến Quốc (chiến sĩ mới). Đồng chí Phạm Thu Vân (biệt danh Bảy Thủy) là con một của hai vợ chồng đồng chí Phạm Quang Hồng, cán bộ cách mạng lão thành… Đồng chí Tư Nghĩa anh dũng hy sinh tại khu vực chùa Ấn Quang, Quận 3.

Kể chuyện căn cứ Phước Vân gợi nhớ đến sự hy sinh anh dũng của đồng chí Ba Thành và nữ giao liên Hồng Liên. Đêm trước ngày hai đồng chí hy sinh căn cứ Phước Vân đón được đoàn cán bộ - chiến sĩ do đồng chí Bảy Trung phụ trách, đưa anh chị em ta từ Bến Tre về (sau 46 ngày đêm ròng rã chờ cơ hội vượt sông Cửu Long, nhiều lần tìm cách qua lộ 4, ngày tránh giặc, đêm hành quân, nhiều lần gặp giặc phục kích phải quay lại trạm giao liên xuất phát…). Cả căn cứ vui mừng không kể xiết. Sáng hôm sau (một ngày tháng 4/1968) anh chị em trong căn cứ vừa ăn cơm xong thì có báo động giặc càn. Mọi người ngay lập tức thu gọn đồ đạc, ba lô súng đạn lên vai chuẩn bị tránh càn (để giữ bí mật căn cứ, chỉ được phép nổ súng khi tình thế bắt buộc). Một số đông đồng chí chém vè dưới rặng dừa nước, một số đồng chí, nhất là các đồng chí nữ, xuống hầm bí mật nằm rải rác trong căn cứ. Không may, có kẻ chỉ điểm, bọn Mỹ bắn phá dữ dội, xông vào căn cứ, sục sạo tìm hầm, phát hiện ra hầm bí mật có đồng chí Ba Thành và hai nữ giao liên là đồng chí Hồng Liên và đồng chí Sáu Lan. Chúng gọi hàng nhưng đáp lại là tiếng hô dõng dạc, tiếng AK quyết liệt của đồng chí Ba Thành. Giặc ném lựu đạn vào hầm. Đồng chí Ba Thành và đồng chí Hồng Liên hy sinh khi còn ở tuổi thanh niên trong trắng đầy những ước mơ tươi sáng. Đồng chí Sáu Lan bị thương khá nặng, bị giặc bắt. Đồng chí khai là vợ vào thăm chồng, nghe tiếng đạn bom chạy theo vào hầm thế thôi giặc giam đồng chí một năm rồi trả tự do, không gây tác hại gì cho đơn vị. Cho đến tận ngày hôm nay, anh chị em Thành Đoàn vẫn nhớ và nhắc mãi khí phách anh hùng của Ba Thành (quê Củ Chi) và lòng dũng cảm của Hồng Liên (lúc đó chỉ mới 16 - 17 tuổi, quê Bến Tre), nhất định không hàng dù biết rằng phải hy sinh. Căn cứ Phước Vân địa hình mỏng manh đã cứu mạng không biết bao nhiêu lớp cán bộ, chiến sĩ Giải phóng, từ các đồng chí địa phương đến các đồng chí từ bốn phương trời quy tụ về đây cùng với hàng trăm cán bộ - chiến sĩ Thành Đoàn. Năm đồng chí Thành Đoàn là đồng chí Mười Nam, Út Trung, Hai Trung, Ba Thành và Hồng Liên đã ngã xuống và mãi mãi ở lại với ruộng đồng Phước Vân. Ngã xuống tại ấp “2”, Phước Vân, năm 1967, còn có nữ đồng chí Năm Sự (Lê Thị Năm). Trong một chiều mưa gió mịt mù, trắng xóa đồng xuộng, hai đồng chí Hai Liên, Năm Sự trên đường đi công tác gấp từ Long Khê ra cửa khẩu Phước Vân về thành phố, đến ngang ấp “2” bỗng có tiếng sét dữ dội ngoài đồng đang chìm trong cơn mưa nặng hạt. Hai đồng chí bị đánh văng ra xa, ngất xỉu. Hai Liên bị chấn thương nhưng Năm Sự không dậy được nữa. Đồng chí hy sinh lúc vừa tròn 18 tuổi…

Vào khoảng tháng 7 và tháng 8/1968, các đồng chí các bộ phận và Văn phòng Thành Đoàn rời căn cứ tại Phước Vân lần lượt về Ba Thu ở tận biên giới Campuchia học Nghị quyết mới. Một số đồng chí ở lại vùng B, về lại căn cứ Bến Tre, phần lớn vào Sài Gòn tiếp tục chiến đấu đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/04/1975. Căn cứ Phước Vân hoàn thành nhiệm vụ chính trị - quân sự của mình vào cuối năm 1968.

Cũng phải nói thêm, sau đợt 2 Mậu Thân giặc Mỹ Ngụy đánh phá ác liệt xã và căn cứ Phước Vân. Ấp “1”, nhà lớn, nhà nhỏ của nhân dân, địa hình rặng dừa nước huyền thoại hầm hố… bị bom pháo đánh phá tan tành bình địa, đồng bào phải sơ tán ra đồng, dựng chòi ở tạm cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tuy thế cô bác vẫn bám đất, giữ nhà trong từng ấy năm sống trong kềm kẹp, vẫn tiếp tế và nối lại liên lạc với cán bộ địa phương đấu tranh liên tục với địch.

Long Khê là xã giáp ranh với xã Phước Vân. Về địa giới hành chánh thời trước Long Khê cũng thuộc quận Cần Đước. Đến cuối năm 1969, khi tái bình định, địch thành lập quận Rạch Kiến, Long Khê thuộc quận này.

Ngoài con đường từ thị trấn Gò Đen Bình Chánh, Rạch Kiến về Long Khê còn có đường bộ vào Cầu Tràm (Long An), qua xã Long Trạch, thì vào ấp 4 của xã. Ấp có phong trào và lực lượng du kích mạnh nhất, thường là nơi làm việc của các đồng chí cán bộ địa phường xã, huyện; nơi nghỉ quân của đơn vị C316 của Cần Đước và còn là nơi lập các trạm giao liên đường dài liên tỉnh, liên khu… Thành Đoàn (cánh thanh niên công nhân lao động) phát triển căn cứ qua xã Long Khê được giới thiệu cho về đóng ở ấp 4 là một sự quan tâm, chiếu cố của thường trực huyện ủy. Địa hình chung của xã là đồng ruộng bao quanh xóm làng, nhà cửa của đồng bào ẩn hiện, thấp thoáng sau các lũy tre xanh, quây quần thành từng xóm gần nhau, có thể dựa vào nhau chiến đấu, hình thành từng cụm dân cư gọi là "ấp". Các ấp “1, 2, 3, 4” nằm rải rác, phân bố trên diện tích của toàn xã, hầu hết đều có lũy tre làng bao quanh. Lũy tre cũng chính là thành lũy che dấu, bảo vệ mọi thứ bên trong. Nói như thế có nghĩa là lực lượng “liên quân” của xã và các đơn vị đóng trên địa bàn chỉ có thể làm chậm các cuộc hành quân của địch chứ không thể ngăn chận được chúng với ưu thế máy bay, xe lội nước. Sống và chiến đấu ở đây được là nhờ vào lòng dân, do nhân dân bảo vệ và… chỉ có thế thôi! Một lần giặc đã vào tận căn cứ Long Khê, nhưng giặc ở bên trên, ta tạm thời ở dưới hầm trong nhà, trong vườn, cô bác tiếp chuyện với lính coi như không có gì xảy ra. Đến chiều giặc đi (không dám ở đêm) ta lại lên nhà tiếp tục công việc. Bao nhiêu năm qua cứ thế mà tồn tại trong sự bảo bọc, giữ gìn bí mật của dân. Cả Phước Vân, Long Khê đều nằm trong vùng xung yếu, những căn cứ này rất thuận tiện cho công tác bám đô thị nhưng đồng thời nó cũng rất dễ bị đánh phá, gây tổn thất dây chuyền từ trong cứ đến chiến trường, nếu bị địch phát hiện. Thế mà vùng căn cứ này của cánh Thanh niên công nhân lao động vẫn bảo đảm được an toàn cho cán bộ, chiến sĩ của đơn vị cho đến gần cuối năm 1968 thì di chuyển toàn bộ về căn cứ xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

Cũng như ở Phước Vân, các đồng chí cấp ủy chi bộ xã Long Khê đã vui vẻ tiếp đàn cán bộ căn cứ chúng ta. Lúc bấy giờ, bí thư chi bộ là đồng chí Sáu Nhiếp (Nguyễn Văn Nhiếp), Phó bí thư là đồng chí Hai Tiện (Nguyễn Văn Tiện), Trưởng ban tuyên huấn, đồng chí Sáu Trạch (Lê Văn Trạch) đã tận tình hướng dẫn, giới thiệu và hỗ trợ đoàn trong suốt thời gian xây dựng căn cứ và công tác tại xã Long Khê cho đến lúc toàn cơ quan, căn cứ phải rời xã vào cuối năm 1967.

Cơ sở nhân dân đầu tiên đoàn được gởi đến ở nhà má Năm Đồng (má tên Nguyễn Thị Khánh) khoảng trên 40 tuổi, khỏe, phương phi, rất vui. Trong nhà má còn một bà má nữa, sau này vừa là má chiến sĩ vừa là cán bộ của Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi (cánh Thanh niên công nhân lao động). Đó là má Hai (hay má Mười Hai, Nguyễn Thị Hường). Hai bà má đã giúp đỡ, lo lắng cho anh chị em chúng ta khi mới chân ướt, chân ráo đến xã nhà. Trong một lần có báo động bất ngờ lúc chúng ta ở tại nhà má Năm Đồng, hai bà má đã linh hoạt cho chúng ta chun vào hầm bí mật “cây rơm” (dựng riêng cho cán bộ địa phương đến ở tại nhà có chỗ tránh khi có động). Ở vùng làm ruộng, nhân dân thường đánh các cây rơm ở góc vườn nhà nơi gần bếp để lấy rơm nấu ăn. Nhân đó các đồng chí cùng nhân dân đã nghĩ ra cách làm hầm bí mật trong lòng cây rơm truyền thống, ra vào bằng một cửa nhỏ, bí mật. Trong xã có hàng mấy trăm cây rơm, ai biết cây rơm nào là cây rơm có hầm bí mật, vốn là loại sở hữu gia đình, chỉ có người nhà: người còn thế hợp pháp với giặc mới được biết mà thôi (để đóng mở cửa hầm, báo yên, cơm nước…) Nếu hầm bí mật cây rơm bị lộ, thì tai họa khôn lường đối với gia đình, vì thế cho người xa lạ, vừa mới đến, dù là cán bộ, chiến sĩ cách mạng, nhưng chưa biết lòng trung trinh, khí tiết như thế nào, sử dựng hầm bí mật riêng là một việc hiếm có, điều đó chỉ xuất phát từ lòng yêu thương cán bộ Thành Đoàn vô bờ bến và sự hy sinh không tính toán của các má ngay những ngày đầu mới gặp. Về sau, hầm bí mật trong cây rơm bị lộ, đồng bào cho làm hầm bí mật trong vườn nhà, ở những nơi gai góc nhất để chống soi hầm. Lúc giặc bắn đại bác bừa bãi vào xóm, nhà nhà phải làm hầm chống pháo (còn gọi là trăn-xê), dưới trăn-xê là hầm bí mật; ngoài ra còn có hầm cá trê, bắt chước cá trê làm hang, móc ở các bờ hào, dưới các bụi tre rậm rạp, vẫn có thể “chém vè” tránh địch. Nhưng chém vè lâu trong hầm cá trê dễ bị… đánh bò cạp vì lạnh. Từ nhà má Năm Đồng, về sau, chúng ta phát triển ra nhiều nhà khác như: nhà chú thím Bảy Dầu (Nguyễn Văn Dầu); chú thím Tám Rạng (Nguyễn Hữu Rạng); nhà má Tư (Cao Thị Én) và chị Năm Bân (Phạm Thị Viễn, vợ xã đội trưởng Năm Bân, cán bộ ấp và là cơ sở của căn cứ Long Khê); nhà bác Bảy Hóng có con là cô Sáu Sự, chuyên bám tình hình khi có giặc càn vào xã; nhà má Mười Có; nhà chú thím Lý Văn Sinh (Sáu Sinh); chú Tám Kiên, nhà thím Hai Chương; chú thím Bùi Văn Mau (Tư Mau) và đặc biệt là nhà má Mười Một (hay má Một, Nguyễn Thị Giáp), nhà trung tâm như là văn phòng vùng B của cánh Thanh niên công nhân lao động, về sau má Một trở thành “chiến sĩ lão thành” của Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi, lập nhiều thành tích mang vũ khí, tài liệu vào Sài Gòn. Ngoài má Một có má Hai (Mười Hai) sau này cũng trở thành cán bộ lão thành, phụ trách giàn giao liên của căn cứ Phước Vân… Nhà chú Bảy Dầu, chú Sáu Vinh, má Tư (Cao Thị Én), chú Tám Kiên, nhà văn phòng (má Một) là những nhà có hầm bí mật; những nhà khác làm nơi nghỉ cán bộ điều lắng, cán bộ chờ phân công, học viên các lớp huấn luyện, là nơi mở lớp… và nhất là cho nữ giao liên ở (theo thế) hợp pháp. Ngoài ra ta còn mở các bàn đạp ở các xã Phước Lý (nhà chị Sáu Lành); xã Long Trạch (nhà anh chị Tám, Trần Văn Lộc; nhà anh Tám Thìn); ấp “1” Long Khê (nhà anh Tám Lùn - anh cao hơn 1,7m nhưng lúc nhỏ anh thấp, và nhà chị Chín Bé)…

Kiểm lại, hai căn cứ Phước Vân, Long Khê là hai căn cứ ở vùng xung yếu nhưng đã được tổ chức khá quy mô, có đầy đủ nhân sự, các cơ sở vật chất - kỹ thuật, hậu cần… phục vụ thành công nhiệm vụ chính trị của cánh Thanh niên công nhân lao động, hoàn thành nhiệm vụ là hậu phương, hậu cứ của Cánh trong suốt thời gian tồn tại của hai căn cứ tại đây.

Được bắt đầu xây dựng từ cuối năm 1964 và tồn tại đến gần cuối năm 1968 (riêng Long Khê thì đến cuối năm 1967), cả hai căn cứ đã góp sức cùng toàn Cánh, hai vùng A và B, hoàn thành các công tác lớn sau:

+ Phục vụ điều lắng và huấn luyện chính trị, quân sự cho hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ của Cánh và Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi. Nhờ vậy đã góp phần bảo vệ tốt tổ chức và cơ sở tại vùng A, bảo đảm an toàn cho căn cứ và cơ quan tại vùng B.

+ Xây dựng được nhiều nhân tố ở vùng B cung cấp nhân lực, cơ sở quần chúng cho vùng A (50 cơ sở).

+ Phục vụ, bảo đảm an toàn cho các cuộc họp của Đảng ủy, Ban chỉ huy Cánh Thanh niên công nhân lao động cùng nhiều cuộc họp của các bộ phận, đơn vị thuộc Cánh, góp phần phục vụ các phong trào đấu tranh chính trị, võ trang của Cánh, trong đó đáng kể là:

- Cuộc họp (khoảng cuối năm 1964) thành lập Ban Vận Động Thanh niên công nhân lao động Sài Gòn - Gia Định được tổ chức tại căn cứ Phước Vân, gồm các Ủy viên: Năm Khoa, Tư Kết, Tư Hà, Bảy Phát, Năm Trọng…

- Các cuộc họp của Ban chỉ huy Cánh chỉ đạo toàn Cánh Thanh niên công nhân lao động tham gia mạnh mẽ vào phong trào đấu tranh chính trị nhân dân Sài Gòn - Gia Định các năm 1965, 1966, 1967. Thời kỳ xuống đường khá liên tục suốt năm 1966 - 1967: biểu tình khắp Sài gòn - Gia Định của lực lượng các giới, trong đó có lực lượng thanh niên công nhân, lao động đưa đến việc thành lập nhiều tổ chức công khai, trong đó có tổ chức “Thanh niên Phụng sự Lao động” (1966)… Cuộc biểu tình lớn hàng vạn người, có mang theo công cụ tự vệ (chai đầy nước, thước gỗ, cờ lê, mỏ lết…) ngày 01/5/1966. Cuộc biểu tình khổng lồ kéo đến trước Tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi năm 1966 ra tuyên cáo lên án và đòi Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam (khắp nơi sơn, vẽ đầy khẩu hiệu “US GO HOME”, lần đầu xuống đường quy mô lớn và rất ý thức của mọi tầng lớp nhân dân, thanh niên…). Cuộc biểu tình có dự định đánh chiếm công khai Đài phát thanh Sài Gòn năm 1967…

- Về đấu tranh vũ trang: Đã mang vào thành phố nhiều vũ khí, đạn, lựu đạn phục vụ tác chiến: 65 trận lớn nhỏ, diệt nhiều Mỹ, công an - cảnh sát Ngụy, mật vụ, bọn ác ôn ở các phường, xóm, xí nghiệp; phá hủy và đốt nhiều xe cảnh sát, MP (quân cảnh) Mỹ… trên đường phố Sài Gòn Gia Định. Đặc biệt Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi của Cánh đã tham gia cuộc tiến công Mậu Thân 1968 suốt từ ngày mùng Một đến mùng 10 Tết tại khu vực vào sâu nhất của lực lượng Quân Giải phóng là khu vực Ngã Sáu Sài Gòn.

+ Nhân lực vùng căn cứ Phước Vân - Long Khê: có thể nói cán bộ, chiến sĩ làm công tác căn cứ Phước Vân - Long Khê thật sự không nhiều. Căn cứ Phước Vân - Long Khê ghi nhớ các đồng chí.

Trước hết phải kể đến trường hợp không may của đồng chí Phan Thị Mỹ Tâm (biệt danh Tư Phương), nữ chiến sĩ kiêm giao liên công khai, người đã bị pháo địch ngã xuống trên ruộng đồng ấp “4”, liên khu khi máy bay địch phát hiện một đoàn cán bộ đang di chuyển. Một nữ sinh trong trắng, vừa vào tuổi thanh niên, dũng cảm, trung thực, hiềnlành, siêng năng, em thể hiện hết tính cách của người nữ thanh niên Cộng sản trong thời chiến, anh chị em trong đơn vị cho đến ngày nay vẫn thường nhắc đến em với nỗi tiếc thương vô hạn. Cán bộ xây căn cứ Phước Vân - Long Khê đều là nam thanh niên, gồm các đồng chí:

- Hai Phước (còn biệt danh là Tư Đồng, Phạm Hữu Đức) là một trong những đồng chí chịu thương, chịu khó, gắn bó với căn cứ từ khi thành lập đến lúc chuyển công tác khác (1964-1969). Công tác rất tốt được nhân dân vùng căn cứ rất thương mến. hiện đồng chí sống tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

- Năm Vững, Lê Văn Đức, quê Bàu Sen, xã Đức Lập, Đức Hòa, Long An là đồng chí công tác căn cứ gắn bó, chịu thương, chịu khó như đồng chí Hai Phước. Cùng tham gia đồng thời với Hai Phước, Năm Vững là đồng chí Tư Nghĩa (Văn Ân) quê Gò Công Đông, một thanh niên nông thôn, công tác tốt nhưng chẳng may bị bệnh phải về quê chữa trị dài ngày, không theo kịp đơn vị.

- Cùng công tác căn cứ là các đồng chí: Tám Việt (hay Tám Tân), học sinh, có bằng tú tài 1, bị lộ ở vùng A được điều về căn cứ, là đồng chí có nhiều sáng kiến trong việc làm hầm bí mật. Năm 1968, được chuyển về biệt động quân khu. Cùng với Tám Việt là Hai Quốc (Lê Thanh Hoàng), cựu cảnh sát Ngụy, bị lộ chạy về làm công tác căn cứ. Rất siêng năng, tận tình, dũng cảm trong mọi công tác giao phó. Ngoài ra có đồng chí Hai Nhẫn, công tác văn phòng Cánh tại vùng B; anh Sáu Hà, người tại xã Phước Vân, được thu nhận làm công tác căn cứ để chuẩn bị đưa vào vùng A (vì còn thế hợp pháp) nhưng không thành công vì không thích nghi được với chiến trường.

- Cùng chung sức với các đồng chí căn cứ Phước Vân - Long Khê là giàn giao liên có thể nói là hùng hậu gồm các nữ đồng chí: Út Phượng, Úy Hồng, Út Tuyết, Tư Hồng, Hai Danh, bé Mai, Năm Vân, Sáu Lan và các má vùng căn cứ như má Hai, má Một, các em trai: bé Quyết, bé Tiến, bé Châu… Phụ trách vùng căn cứ Phước Vân - Long Khê là đồng chí Năm Trọng (Tư Võ, Nguyễn Văn Bình). Anh Hai Nhân là người đầu tiên chỉ đạo xây dựng căn cứ sau đó trực tiếp chỉ đạo vùng căn cứ là đồng chí Năm Khoa (Hồ Thái Hòa, Đỗ Hoàng Hải).

Các đồng chí căn cứ Phước Vân - Long Khê đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ căn cứ của mình, đáp ứng tốt các yêu cầu trong công tác căn cứ, nuôi quân tốt, bảo vệ tốt không để xảy ra bất cứ tổn thất nào kể cả về tài sản, tài liệu, vũ khí…, tham gia huấn luyện được nhiều lượt cán bộ, chiến sĩ vùng A; phục vụ tốt các yêu cầu công tác chính trị, vũ trang, chiến đấu tại chiến trường Sài Gòn - Gia Định; vận chuyển một khối lượng lớn vũ khí phục vụ tác chiến trong thành phố…

Căn cứ tại hai xã Phước Vân - Long Khê là căn cứ quan trọng và việc chọn địa bàn  nơi đây làm căn cứ là một chủ trương sáng suốt có bản lĩnh trong điều kiện tình hình bấy giờ và đến bây giờ mới thấy hàm nhiều ý nghĩa. Cái hay của cuộc chiến tranh nhân dân là nơi nào có giặc nơi đó có Cách mạng. Phước Vân - Long Khê là một trong những căn cứ vành đai của Cách mạng, của kháng chiến bao quanh Sài Gòn…vốn đã có truyền thống, được mở ra từ thời kháng Pháp. Ý nghĩa của các căn cứ vành đai là: chính quyền hiện hữu thật sự đang suy yếu, bị bao vây và nhất định phải sụp đổ.

Điều có ý nghĩa trước tiên khi nói đến các căn cứ Phước Vân - Long Khê là sự lớn mạnh của Cách mạng miền Nam, ngay sát nách địch (chỉ cách Sài Gòn 30 km) đã có vùng giải phóng, có căn cứ cách mạng, ra vào nghiên cứu, bàn kế hoạch đấu tranh, biểu tình, lên sa bàn tác chiến, tấn công địch về chính trị, quân sự, một cách ngang nhiên mà chúng không hề biết, không đối phó được, không làm gì được.

Điều có ý nghĩa đặc biệt nữa là: Cách mạng ở đây tồn tại không có thành trì, không có pháo đài, chiến tuyến mà địch không làm gì được… Lòng dân thương yêu, bảo bọc, che chở là thành trì vô địch, không thể đánh phá được. Có nằm trong lòng dân như thế mới hiểu được sức mạnh của quần chúng, vai trò lịch sử của nhân dân, mới hiểu được thế nào là “từ trong nhân dân mà ra”. Có từ trong nhân dân mà ra mới hiểu hết ý nghĩa của việc phục vụ nhân dân, mới hiểu được “thế nào là và chỉ có xây dựng chính quyền CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN mới gìn giữ được chính quyền nhân dân.

Đến bây giờ khi nhìn lại hai căn cứ Phước Vân - Long Khê mới thấy được tinh thần cách mạng, ý chí xông lên đánh địch không sợ gian khổ, hy sinh của các đồng chí cán bộ, chiến sĩ các bộ phận của Khu Đoàn (hay Thành Đoàn) đã đóng quân, ra vào làm việc, học tập, rèn luyện tại các căn cứ Phước Vân - Long Khê, cũng như các căn cứ khác của Thành Đoàn ở Long Sơn, Long Cang, Long Định… (Cần Đước). Thật ra căn cứ Phước Vân, Long Khê không xa Sài Gòn, địa hình đồng bằng trống trải, nếu địch phát hiện được thì việc bị đánh phá, tổn thất, hy sinh là rất dễ hiểu. Thế mới hiểu được cái cốt lõi của sự tồn tại sát nách quân địch tại đây; thế mới hiểu được thế nào là tinh thần, ý chí cách mạng của tuổi thanh niên. Ngày nay đến tham quan chiến trường cũ tại hai căn cứ này chính các đồng chí đã sống và chiến đấu tại đây cũng rất ngạc nhiên “sao vùng căn cứ lại mỏng như thế này”; còn đồng chí khác thì nói: “Các ông gan mà cũng giỏi thật”.

NGUYỄN VĂN BÌNH

 

 
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16108 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16108 CLB Truyền thống Hành trình xây dựng căn cứ Đoàn ủy học sinh (1963 - 1973) Sau khi chế độ độc tài gia đình trị Diệm - Nhu bị lật đổ, phong trào và lực lượng cách mạng các giới ở đô thị có bước phát triển nhảy vọt, nhất là trong sinh viên học sinh. Mon, 08 Oct 2012 10:28:02 +0700
Hành trình xây dựng căn cứ Đoàn ủy học sinh (1963 - 1973)

Sau khi chế độ độc tài gia đình trị Diệm - Nhu bị lật đổ, phong trào và lực lượng cách mạng các giới ở đô thị có bước phát triển nhảy vọt, nhất là trong sinh viên học sinh. Để chủ động có một căn cứ mới làm nơi huấn luyện dài ngày cho cán bộ các trường ở nội thành và cũng để phân tán bớt các cơ quan của Khu ủy, lúc này đã đóng dày đặc suốt Nam Bắc Bến Cát; đường ra vô nội thành bị lộ, địch bắt đầu chú ý, đánh phá.

Về quê hương Đất Đỏ

Nhạy bén trước tình hình Ban cán sự Học sinh quan hệ và được sự giúp đỡ của tỉnh ủy Biên Hòa - Bà Rịa; phân công cán bộ giao liên có kinh nghiệm xây dựng căn cứ, mở về hướng đường 15 (Quốc lộ 50) Sài Gòn - Vũng Tàu, vùng rừng núi Thị Vải - Núi Dinh.

Địa hình địa vật nơi đây rất thích hợp cho việc xây dựng một cơ ngơi lâu dài. Với khu rừng nguyên sinh bạt ngàn, núi non trùng điệp có nhiều hang động, suối nước trong mát quanh năm, vùng giải phóng rộng lớn.

Việc đi lại rất thuận lợi, giống như du khách đi nghỉ mát Vũng Tàu hay như phật tử hành hương về các chùa nổi tiếng vùng này như Đại Tòng Lâm, Chùa Tổ, Chùa Hang Mai - Ngọc Sơn Dinh.

Hoặc xa hơn một chút về hướng Long Hải qua Long Điền - vùng đất đỏ rẽ sang tỉnh lộ 2 về các xã giải phóng Hòa Long, Long Phước, Bình Ba, Xà Bang, đi bằng xe lam hay xe ngựa là đến nhà cơ sở… chờ chiều xuống theo đường du kích về căn cứ trên đỉnh núi Dinh.

Những ngày đầu tiên với sự khéo léo và dũng cảm các chị: Ba Tiến, dì Sáu Hòa, chị Mười Hồng, chị Năm Phượng, Út Thu… xây dựng nhiều cơ sở đứng chân ở vùng đất mới. Anh Tư Giang, anh Sáu Đông, chị Sáu Nguyệt, chị Năm Phường, Thị ủy Bà Rịa đã tận tình giúp đỡ cho xây dựng căn cứ bên cạnh và đồng chí ở vùng ngoài án ngữ cho cánh đô thị.

Căn cứ đầu tiên được chọn là núi Thị Vải, bàn đạp là nhà ở gần chùa Đại Tòng Lâm, chùa Cầu Ván (Hội Bài). Nhưng ở đây có điều bất tiện, hướng đường vào núi chỉ có con đường đất “độc đạo”… lại quá gần đồn bảo an Ngụy ở Phú Mỹ, bọn chúng thường bung ra, lùng sục chung quanh. Ban cán sự học sinh chỉ mở 2 lớp ngắn hạn, đóng vài tháng rồi dời về hướng Hắc Dịch, Xà Bang - huyện Châu Đức.

Lớp học đầu tiên được tổ chức gồm 12 học viên, nghiên cứu tài liệu sơ cấp chính trị, giảng viên có các đồng chí Hồ Hảo Hớn, Hai Nhân, Ba Châu, Chín Hải… nhà ở học viên được làm đơn sơ với mái che bằng nilông, giường nằm là tre bổ “sịa” (đập dập) được lót cao như nhà sàn, vừa là chỗ ngủ vừa là chỗ học.

Lớp học được 1 tuần thì đoàn cán bộ 10 đồng chí do Đặng Công Tâm (Sáu Học), Châu Long, Hai Phước, Chín Sáng, Út Nhứt từ Củ Chi theo đường dây du kích vượt lộ 1 (Quốc lộ 22), qua Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ, vượt Soài Rập, Lòng Tàu, qua lộ 15 về căn cứ Hắc Dịch: cuộc hành trình suốt 1 tháng trời trải qua nhiều gian nan các đồng chí về đến nơi an toàn, khỏe mạnh.

Cuộc hội ngộ giữa rừng miền Đông xúc động không tả hết. Căn cứ từ nay có thêm nhiều đồng chí dày dạn chiến trường, nhiều kinh nghiệm. Xây dựng căn cứ tổ chức chỗ ăn chỗ ở, bảo vệ, đi lại tiếp phẩm tươm tất.

Những ngày tháng 12/1964 rừng khu A nhộn nhịp hẳn lên, nhiều đơn vị bộ đội chủ lực miền Q761, Q762… (tiền thân của Sư 9) về đóng quân gần căn cứ, để chuẩn bị cho chiến dịch Bình Giã, lớp học có dịp giao lưu với bộ đội. Lần đầu tiên được tận mắt thấy lực lượng “đằng mình” đông đảo, với nhiều loại vũ khí mới, các anh bộ đội ai cũng trẻ trung. Các anh cán bộ “mùa thu” kể chuyện miền Bắc, chuyện Trung Quốc, Liên Xô…, kể chuyện Bác Hồ Các anh em học sinh sinh viên rất phấn khởi.

Địch như đánh hơi có bộ đội chủ lực ta về ở địa bàn, chúng mở nhiều cuộc hành quân thăm dò dọc tỉnh lộ 2, Xà Bang, Bình Ba, có bữa chúng bắn pháo, bỏ bom gần căn cứ, lớp học phải sơ tán.

Tháng 12/1965, trận đánh Bình Giã nổ ra; từ đỉnh núi Dinh nhìn thấy từng đàn trực thăng từ Sài gòn, Biên Hòa bay ra và cũng thấy chúng mang về nhiều xác máy bay, pháo bị ta bắn hạ. Ban cán sự dời căn cứ lên núi Dinh, ngọn núi có độ cao trên 400m, cảnh quan nơi đây rất ngoạn mục. Giữa núi non hùng vĩ với cây cao bóng cả, suối nước trong, tuôn từ đỉnh xuống, khi ẩn khi hiện làm nên nhiều thác nước nhỏ như tranh vẽ, khó nơi nào có được. Đường từ chân núi lên có nhiều ngôi cổ tự, trang nghiêm như: chùa Mẫu, chùa Tổ, chùa Hang Mai. Tiếng chuông chùa ngày ngày vọng lên, giữa núi rừng như xua đi tiếng bom đạn của chiến trường. Vào ngày lễ, tết, hòa vào dòng người hành hương trong những thiện nam tín nữ có nhiều cán bộ thành phố về chiến khu hoặc từ chiến khu xuống núi trở ra thành phố.

Về đây có lợi, đường ra vào được mở ra nhiều hướng, đường 15 tỉnh lộ 2. Núi non trùng điệp với hang động rộng rãi, chỗ trú ẩn vững chãi chở che. Khi có bom pháo, đỉnh núi thường xuyên có mây phủ. Từ đây nhìn ra hướng Bà Rịa, Vũng Tàu thấy rõ thành phố biển với những con tàu neo đậu xa xa.

Trên khoảng đất trống bằng phẳng, không gian rộng rãi, Ban cán sự tổ chức liên tiếp nhiều lớp huấn luyện cho các đối tượng đảng viên của các chi bộ liên trường, cán bộ Tổng đoàn Học sinh. Quy mô mỗi lớp từ 30 - 50 học viên, được bổ sung về các cánh, như Thanh niên Công nhân lao động, sinh viên, các phân khu và liên quận…

Ngoài việc học tập, ngày nghỉ cơ quan, tổ chức "lao động xã hội chủ nghĩa": nhóm thì đi cắt tranh, hái lá trung quân, lợp thêm nhà mới và nhóm thì bẻ măng, đào củ chụp hoặc bắt cua, câu cá ở các dòng suối nhỏ, trên núi để cải thiện bữa ăn.

Đội bảo vệ thông thạo địa hình, địa vật, xuống hố tương vào các rẫy mì, rẫy bắp, săn thú rừng như: nai, mễn, cheo, heo rừng, khỉ, voọc phong phú ít khi phải về không và anh em được thưởng thức đặc sản của núi rừng.

Gạo thóc, khô, mắm là những mặt hàng chiến lược, cần phải dự trữ dồi dào, nên việc đi tải rất chu đáo, đường xa, qua sông, qua lộ, đột nhập các ấp chiến lược, nhiều khi tao ngộ với địch, hạt gạo mang về đến cơ quan có nhuộm máu của đồng đội.

Cứ mươi ngày, hoặc nửa tháng, cơ quan… đi tải gạo. Xuống dốc Cổ Cò, qua cầu dây, ở thượng nguồn sông Dinh về Hòa Long, Long Phước (tỉnh lộ 2). Hoặc vượt đường 15, qua vùng Bà Trao (Long Sơn), vô Aáp chiến lược mua hàng. Chiều hành quân, mờ sáng hôm sau phải về đến nơi, gian khổ nhưng là niềm vui lớn vì được chia sẻ với các đồng chí hậu cứ, nên học viên luôn xung phong vượt số lượng yêu cầu.

Cơ quan còn tổ chức tăng gia sản xuất, phân công mươi đồng chí: Hai Bình, Hai Phước, Ba Hiệp, Tám Quang, chị Mười Hồng, chị Sáu Nguyệt… về xã Phước Thái. Cách núi Dinh nửa ngày đường phá cỏ dại cây rừng, trồng hơn 4ha bắp, bí, khoai mì. Ở đây còn học được các đồng chí bộ đội cách phát rừng làm rẫy, bẫy cò ke để bắt cheo, chồn, gà rừng; làm sa, đặt lộp, cắm câu, bắt cá, theo các con suối.

Tháng 9/1965 để tăng cường cho cánh quân sự, Ban cán sự điều một số đồng chí lên đường về Củ Chi: đồng chí Đàm Thanh Quang (Ba Gia), Nguyễn VĂN Sính (Hai Bình), Châu Long (Bảy Hiền), Hai Phước, Chín Sáng, Út Nhứt, Đỗ Văn Lộc (Sáu Sát). Rời núi Dinh một ngày, đoàn đến trạm giao liên Nguyễn Trãi (Phước Thái) trong những ngày chờ chuyển đi. Trạm giao liên Nguyễn Trãi bị máy bay phát hiện và ném bom. Đồng chí Đỗ Văn Lộc (Sáu Sát) - học sinh trường Tân Thạnh (Tân Định) - hy sinh - đồng đội đành mai táng đồng chí tại đây.

Căn cứ Long Thành

Cùng thời gian này, Ban cán sự học sinh cũng phân công một số đồng chí: anh Sáu Đông (Phan Văn Mùa), Ba Hiệp và 3 cán bộ học sinh điều lắng, Ba điều, Bảy Lâm, Hai Sơn qua lộ 15 về hướng Long Thành - Nhơn Trạch đến bến phà Cát Lái, Thành Tuy Hạ (Thủ Đức). Đây là vùng đất đồi, rừng chồi, cây thấp dây gùi, dây gấm mọc chằng chịt, chỉ cách đồn bót địch vài km, sinh hoạt phải khéo léo giữ gìn bí mật từ lối đi đến chỗ ăn ở đều phải ngụy trang kỹ không để lại dấu vết.

Vào mùa khô khu rừng thiếu nước phải tìm vũng bùn heo rừng nằm chắt lọc từng lon về lóng phèn để nấu ăn, tắm giặt chờ tới tối đến, xuống xóm tranh thủ làm việc, kết hợp giặt giũ tắm giặt, tải từng bọc nước ngọt về dự trữ để ăn uống, mua nhu yếu phẩm về cứ đủ ăn cho vài ngày sau.

Vất vả nhất là đào hầm ngủ, hầm bí mật, giếng nước đào sâu hàng chục mét mới có nước rỉ ra từng giọt nhỏ càng xuống sâu bị sức ép mũi bị chảy máu cam, ù tai, khó thở, mươi phút phải thay người khác, đôi bàn tay bị phồng tóe máu.

Căn cứ này đồng chí Hồ Hảo Hớn, Lê Mỹ Lệ vào làm việc đôi lần sau đó bị biệt kích Mỹ đột kích, chúng bắn bị thương và bắt đi 2 đồng chí. Sau đó phải bỏ căn cứ lõm này về lại núi Dinh.

Tháng 10 năm 1965, Ban cán sự học sinh phân công đồng chí Nguyễn Thành Đô (Tư Giang), Đỗ Văn Hoàng (Hai Hòa) về cánh Thanh niên công nhân lao động và đồng chí Nguyễn Chơn Trung (Sáu Quang), Trương Văn Hòn (Ba Hớn), Phan Anh Điền về Thường trực Văn phòng Khu Đoàn làm cán bộ, nghiên cứu giã từ núi Dinh, 5 đồng chí theo đường dây qua các trạm giao liên Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Trị An, Đất Cuốc, vượt lộ 13 về lại Bến Cát - Củ Chi.

Căn cứ núi Dinh có thời gian dài rất ổn định, an toàn suốt 3 năm chưa bị địch càn đánh phá lần nào, do đó đã đào tạo cán bộ.

Đầu mùa khô 1966, Mỹ và chư hầu Úc đổ quân vào Vũng Tàu - Bà Rịa - núi Đất (Long Khánh) thay thế quân Ngụy, mở đầu chiến lược Chiến tranh Cục bộ. Chúng tiến hành cuộc càn quét, đánh phá vào chiến khu quy mô lớn. Núi Dinh là mục tiêu chính chúng muốn triệt hạ. Căn cứ Ban cán sự học sinh nằm gọn trong tầm hỏa lực của địch, việc đi lại giữa nội thành và vùng căn cứ trở nên khó khăn.

Trước tình hình đó, Ban cán sự quyết định cho sơ tán, tạm lắng bảo tồn lực lượng. Các đồng chí có điều kiện đi đường công khai ra liên tỉnh lộ 2 hoặc Quốc lộ 15 về thành phố, các đồng chí bảo vệ và cán bộ ở hậu cứ phối hợp với đơn vị bạn Thị đội Bà Rịa bám trụ chiến đấu chống càn.

Sáng sớm ngày 10/10/1966, xung quanh chân núi địch đổ quân bộ binh và xe tăng vây chặt các cửa ngõ ra vào, pháo các cỡ bắn cấp tập. Dội bom rung chuyển núi rừng.

Từ trên đỉnh núi máy bay trực thăng dùng thang dây đổ bộ từng toán biệt kích, dùng cưa máy hạ cây dọn bãi đổ quân kết hợp dưới đánh lên trên đánh xuống, các ngôi chùa đều bị trúng đạn trực thăng, rocket, bốc cháy, tăng ni, phật tử, nhiều người bị thương bị chết.
Trong lúc tạm ngưng tiếng súng đoàn người từ các chùa trên núi và dân làm rẫy gồng gánh lũ lượt xuống núi tản cư, tổ chức quyết định cho đồng chí Nguyễn Sơn Hà (Mười Cường), cạo đầu, mặc áo nâu, cải trang làm tu sĩ, hòa cùng dòng người tản cư ra khỏi vòng vây của địch.

Đồng chí Phan Văn Mùa (Sáu Đông), chỉ huy đội bảo vệ chống càn, ngày 10/10/1966, địch đánh vào căn cứ, 3 đồng chí, Hai Tùng, Hai Hùng, Hai Sơn - những người con ưu tú của Sài Gòn - Gia Định đã có mặt từ ngày đầu xây dựng căn cứ dựa vào từng hốc đá, từng gốc cây, chiến đấu. Trận đánh không cân sức, 3 đồng chí bị thương và bị chúng giết. Tránh tổn thất lớn, đồng chí Sáu Đông cùng Thị đội Bà Rịa (cánh đồng chí Hai Võ) đưa 20 đồng chí vượt vòng vây hành quân qua Đồng Nai, Sông Bé, chiến khu D về lại Củ Chi. Đường dài, đơn vị có nhiều đồng chí bị bệnh phải gửi lại trạm quân y, đồng chí Nguyễn Ngọc Thành (Ba Hiệp) xung phong thay cho đồng chí nữ ở lại nuôi bệnh đã bị sốt rét ác tính, thiếu thuốc, hy sinh tại quân y - người con của Tây Đô trên đường hành quân đã nằm lại Đất Cuốc - Chiến khu D Chánh Lưu.

Về lại Củ Chi - Bến Cát (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh)

Hơn một tháng đoàn về tới Thanh Tuyền (Bến Cát) phân tán về tạm trú các căn cứ cũ Phú An, hoặc An Tịnh (Trảng Bàng).

Mặc dù phải di chuyển liên tục, phân tác lực lượng nhiều nơi, Ban cán sự học sinh vẫn giữ vững liên lạc với nhau, chỉ đạo kịp thời phong trào ở thành phố.

Mỹ ngụy bắt đầu cuộc phản công chiến lược mùa khô lần 2 (ngày 08/01/1967) - chúng mở cuộc càn lớn (Cédar Falls) chúng đánh vào Nam Bắc Củ Chi và Nam Bắc Bến Cát, tập trung nhiều đơn vị thiện chiến, mật độ bom pháo chưa từng có, xe tăng xe ủi đất, máy bay B52 nhằm hủy diệt vùng giải phóng hai bên bờ sông Sài Gòn.

Nhân dân và lực lượng vũ trang dựa vào hệ thống địa đạo, đánh trả cuộc hành quân suốt 18 ngày đêm…

Các căn cứ Ban cán sự Khu Đoàn và các cơ quan trực thuộc đều bị địch đánh vào. Mặc dù đã sơ tán mỏng nhưng cũng không tránh khỏi tổn thất, đồng chí Tư Thắng - bảo vệ đồng chí Hồ Hảo Hớn đạp mìn hy sinh và sau đó 2 đồng chí Thanh Hồ và Ba Bình cùng vượt sông Sài Gòn với cơ quan Khu Đoàn bị phục kích tại rạch Nàng Âm hy sinh cùng 7 đồng chí khác.

Phía Bắc Bến Cát (Thanh Tuyền), căn cứ học sinh cũng bị Mỹ đánh vào, chúng dùng chó Berger phát hiện hầm bí mật khui hầm bắt đi 2 đồng chí (Tư Phước và Ba Huy).

Sau trận càn “Lột vỏ trái đất” (Cedar Falls tháng 01/1967), Ban cán sự và cán bộ cánh học sinh vào hết nội thành. Vùng B còn lại một bộ phận nhỏ, về đóng tại các ấp xã An Tịnh (huyện Trảng Bàng) - một xã phân nửa giải phóng nằm trên quốc lộ 1 sát thị trấn Trảng Bàng.

Xã An Tịnh có phong trào du kích chiến đấu mạnh, xã chiến đấu dựa vào những lũy tre kiên cố. Nhân dân có truyền thống cách mạng, đây là vùng giải phóng từ ngày đồng khởi. Các gia đình ông Hồ Văn Kịch, Hồ Văn Cư là cơ sở bàn đạp giao liên, chí cốt cho đào hầm bí mật ngay trong vườn nhà để che giấu cán bộ, cơ sở. Căn cứ này thuận lợi việc để sinh hoạt ngắn ngày.

Về Mỹ Tho (Tiền Giang)

Giữa năm 1967, cùng với chủ trương di dời căn cứ về đồng bằng sông Cửu Long, Ban cán sự học sinh phân công đồng chí Phan Văn Mùa (Sáu Đông), Hồ Văn Thông (Năm Hổ), Hai Trung cùng đơn vị về Mỹ Tho xây cứ mới. Căn cứ Hội Cư (huyện Cái Bè - Tiền Giang). Căn cứ này do chú Bảy Trứ, cán bộ 9 năm, có nhiều quan hệ với địa phương Cái Bè giới thiệu với cánh học sinh. Các gia đình bác Năm Vĩnh, bác Tám Dũng, bác Năm Trường… là cơ sở bàn đạp, rất rành đường đi nước bước vùng sông nước Cai Lậy, Cái Bè.

Các đồng chí Ngô Thị Cẩm Tiên, Sáu Hồng, Bé Hồng, Hai Liên… cơ sở giao liên và các bàn đạp ra hướng Bà Tồn, cầu Thông Lưu, Cổ Cò (Mỹ Đức Tây).

Đồng bằng, sông rạch chằng chịt, vườn tược cây trái đủ loại trù phú là một trong nhiều vựa lúa của miền Nam. Về đây phải sớm thích nghi với sinh hoạt vùng nông thôn như: phải biết bơi xuồng, lái đuôi tôm, đi cầu khỉ, biết bơi biết lặn và đặc biệt phải biết “chém vè” khi bị địch càn.

Từ miền Đông vừa hành quân về đến, các đồng chí Sáu Đông, Năm Hồ, xắn tay vào xây dựng hầm ngủ, hầm bí mật bảo đảm cho hơn 50 đồng chí vào làm việc có chỗ ăn ở, tránh khi bị động.

Giữa năm 1967, Ban cán sự mở lớp huấn luyện cho cán bộ nòng cốt các trường và liên trường với hơn 20 đồng chí học viên và phần lớn các đồng chí Ban cán sự có mặt như đồng chí Lê Mỹ Lệ (Năm Trang), Lê Văn Ninh (Ba Thoại), Nguyễn Văn Chí (Bảy Điền), Nguyễn Chơn Trung (Sáu Quang, Tư Lý)…

Lớp học nửa chừng bị địch càn vào, đánh phá liên tiếp 3 ngày vào đúng căn cứ. Bảo vệ các đồng chí Ba Thoại - Phó Bí thư, Sáu Trúc bị ngạt dưới hầm bí mật hy sinh và đồng chí Tám Lễ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh tại chiến hào. Lớp học kết thúc trong khói bom. Nhằm bảo vệ đường Quốc lộ 4 - con đường huyết mạch về miền Tây và Mỹ xây dựng căn cứ liên hợp quân sự Đồng Tâm (Mỹ Tho). Sư Đoàn 7 - Sư Đoàn 21 của Ngụy mở nhiều trận càn quét vào các xã Nam Bắc, Quốc lộ 4 đánh sâu vào Đồng Tháp Mười. Với các chiến dịch “Cửu Long 1, 2, 3”, “Đợt sóng thần 1, 2”. Ban cán sự cánh học sinh một lần nữa vượt sông Tiền Giang về Phước Thạnh, đoàn tụ cùng các cánh của Khu Đoàn ở các xã huyện Châu Thành bên bờ sông Ba Lai - Bến Tre với rừng dừa mượt mà. Từ đây, cánh Học sinh và các cánh khác được phiên chế vào 3 lực lượng của Thành Đoàn để đi vào chiến dịch Mậu Thân lịch sử.

Trong các đơn vị của Khu Đoàn, cánh Học sinh có một lịch sử xây dựng căn cứ bàn đạp giao liên khá hùng tráng với những cuộc trường chinh từ miền Đông xuống đồng bằng, nhiều gian khổ hy sinh, trải qua nhiều chiến lược chiến tranh của Mỹ Ngụy, đảm bảo tốt nhất cho phong trào cách mạng ở nội thành luôn ở thế tiến công, góp phần đào tạo, cung cấp nhiều cán bộ ưu tú cho ban, ngành Thành Đoàn và Thành ủy.


PHAN ANH ĐIỀN
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16098 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16098 CLB Truyền thống Căn cứ Hội đồng Sầm, xã Bình Hòa Bắc – Đức Huệ, Long An (8/1961 – đầu năm 1962) Vùng Hội đồng Sầm đồng bào sống trong các vuông tre, xóm này qua xóm khác phải vượt qua từng cánh đồng nhỏ. Do địa hình vùng căn cứ nên cán bộ xã và du kích không đào hầm bí mật, không chui về, khi địch càn quét, nếu lọt vào ổ phục kích của bộ đội chủ lực tỉnh, có sự phối hợp của võ trang huyện, chúng bị tiêu diệt ngay, còn các cuộc càn quét lấy lệ của địch, du kích xã né để bảo tồn lực lượng. Fri, 05 Oct 2012 15:01:17 +0700
Căn cứ Hội đồng Sầm, xã Bình Hòa Bắc – Đức Huệ, Long An
(8/1961 – đầu năm 1962)

Sau trận càn lớn ở Đức Lập, Mỹ Hạnh ngày 20/8/1961, riêng nhà in Trần Văn Ơn có đồng chí Ba Trung hy sinh, đồng chí Chín Đại (Nguyễn Hữu Nghĩa) bị thương, các đồng chí nhà in sau khi cùng Văn phòng Ban cán sự tổ chức truy điệu, mai táng đồng chí Tám Lượng, đồng chí Ba Trung, đồng chí Trinh (vợ đồng chí Ba Lam) được đồng chí Ba Châu thay mặt Ban cán sự chỉ đạo đi xây dựng căn cứ in ấn mới tại Hội đồng Sầm xã Bình Hòa Bắc, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Căn cứ này nằm giữa đường đi từ bàn đạp ấp Tân Quy, ven sông Vàm Cỏ Đông xã Tân Phú vào căn cứ “Đại Tây Dương”. Nếu đi từ bàn đạp Tân Phú lúc 9 giờ sáng đến 13 hoặc 14 giờ tới Hội đồng Sầm và phải đến 18 hoặc 19 giờ mới tới căn cứ Đại Tây Dương bên bờ Kinh Ba Keng. Về đây các đồng chí được địa phương bố trí ở nhà má Năm Huệ. Do yêu cầu công tác tuyên truyền lúc này dồn dập phục vụ cho phong trào lên mạnh ở nội thành, nhà in được tăng cường đồng chí Bảy Phát (Trần Văn Tư) và đồng chí Chín Bông. Nếu lúc trước nhà in chỉ có 1 khuôn in, nay tăng lên 3 khuôn. Nhà in lúc này ngoài việc in tài liệu huấn luyện cán bộ Đoàn, còn in tin tức, tài liệu và báo Cờ Giải phóng - tiếng nói Khu Sài Gòn - Gia Định. Các đồng chí Chín Đại, Năm Liêm, Bảy Phát, Chín Bông ai cũng biết đánh máy vào giấy sáp, biết in bằng quai guốc, biết chép tin đọc chậm của Đài Hà Nội. Chỉ có họa sĩ là Ban cán sự chưa đáp ứng cho nhu cầu của nhà in nên đồng chí Bảy Phát tuy mới về bộ phận in ấn để viết bài đã cố gắng kiêm luôn “thợ vẽ”. Có lần đồng chí mày mò vẽ ảnh Gagarin lên giấy sáp in màu, nhân có bài báo viết về phi hành gia Liên Xô “Gagarin” lần đầu tiên trên thế giới bay vào vũ trụ. Khi báo in xong, đồng chí Chín Đại phụ trách nhà in nhận xét vui “ảnh này là anh của Gagarin vì già hơn Gagarin”.

Toàn bộ máy móc phương tiện in ấn của nhà in Trần Văn Ơn lúc này chỉ vỏn vẹn có 1 máy đánh chữ, 1 radio và mấy khuôn in bằng gỗ gọn nhẹ, nhưng bộ phận hậu cần gồm đi vào nội thành mua giấy, mực in ronéo, in xong phải phát hành trở ra nội thành, phải nghi trang khéo léo qua mặt các trạm kiểm soát. Công việc khá nặng nề, phức tạp, phải có sáng kiến và kinh nghiệm này do đồng chí Năm Nguyện phụ trách đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.

Vùng Hội đồng Sầm đồng bào sống trong các vuông tre, xóm này qua xóm khác phải vượt qua từng cánh đồng nhỏ. Do địa hình vùng căn cứ nên cán bộ xã và du kích không đào hầm bí mật, không chui về, khi địch càn quét, nếu lọt vào ổ phục kích của bộ đội chủ lực tỉnh, có sự phối hợp của võ trang huyện, chúng bị tiêu diệt ngay, còn các cuộc càn quét lấy lệ của địch, du kích xã né để bảo tồn lực lượng. Khi có chủ trương diệt đồn giặc mở rộng vùng giải phóng thì du kích xã, lực lượng võ trang huyện phối hợp cùng chủ lực tỉnh diệt địch. Tình hình căn cứ Hội đồng Sầm như vậy nhưng đồng chí Ba Vạn (Phan Chánh Tâm) vẫn liên hệ với địa phương hỗ trợ về mặt an ninh để mở liên tiếp 2 lớp cạnh nhà má Năm Huệ để huấn luyện cán bộ học sinh sinh viên ngắn ngày, mỗi lớp độ 5 - 7 học viên.

Khi tất cả các đồng chí nhà in về cứ Đại Tây Dương tập huấn chính trị thì địch nhảy dù xuống Hội đồng Sầm, đồng chí Ba Nhiệm - Trưởng cánh võ trang Học sinh - Sinh viên đang tập huấn quân sự tại đây đã cùng lực lượng võ trang huyện né tránh địch bảo toàn lực lượng. Khi cánh in ấn trở lại Hội đồng Sầm đào máy đánh chữ, khuôn in, giấy mực còn nguyên vẹn, sinh mạng tài sản của đồng bào ở đây cũng không bị thiệt hại.

Cuối năm 1961, khi địch bắt đầu sử dụng chiến thuật trực thăng vận đánh vào căn cứ Vườn Thơm và một số vùng lân cận, Khu ủy đã kịp thời chỉ đạo các cánh đô thị trong đó có Học sinh - Sinh viên và nhà in phải nhanh chóng rút về các căn cứ có rừng, địa đạo ở Củ Chi, Tây Ninh để bảo toàn lực lượng. Bộ phận huấn học về khu rừng lớn xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh, các đồng chí in ấn về ấp Phú Hòa, xã Phú Mỹ Hưng, giáp ranh Lộc Thuận, đóng trong nhà anh Hai Nghè, chị Tư Tua cảnh khu rừng chồi có địa đạo khá an toàn.

HAI NHÂN
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16089 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16089 CLB Truyền thống Vùng Căn cứ Thị Vải, Núi Dinh, Bà Rịa (1963 - 1966) Do lực lượng Khu Đoàn ở đô thị và cả ở nông thôn phát triển mạnh, do tình hình địa bàn nông thôn vùng giải phóng rộng mở và do chủ trương của Khu Đoàn là phải chủ động xây dựng thêm các căn cứ, đề phòng địch phong tỏa căn cứ này thì ta dùng căn cứ khác Thị Vải mới được hình thành. Thu, 04 Oct 2012 13:49:50 +0700
 Vùng Căn cứ Thị Vải, núi Dinh, Bà Rịa (1963 - 1966)
 

Do lực lượng Khu Đoàn ở đô thị và cả ở nông thôn phát triển mạnh, do tình hình địa bàn nông thôn vùng giải phóng rộng mở và do chủ trương của Khu Đoàn là phải chủ động xây dựng thêm các căn cứ, đề phòng địch phong tỏa căn cứ này thì ta dùng căn cứ khác Thị Vải mới được hình thành. 
 
Đỉnh núi Dinh, căn cứ của Thành Đoàn (1964 - 1966). Trong ảnh có dấu hiệu sân bay của Mỹ, chụp lại năm 1998, ảnh: tư liệu
 
Là vùng núi hiếm hoi của miền Đông Nam Bộ, núi Thị Vải - núi Dinh thuộc huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay. Với thế núi cùng các ngã đường ở bốn phía vào núi, trong đó có nhiều chùa am, lại cách Sài Gòn độ một trăm cây số, nên Thành Đoàn mới chọn nơi đây làm căn cứ. 
 
Vị trí thuận lợi 
 
Gần trung tâm đô thị Sài Gòn, có thể hòa vào dòng người đi du lịch Vũng Tàu hay đi chùa Đại Tòng Lâm vào núi là an toàn. Cũng có thể vào bằng hướng Đất Đỏ, hoặc hướng từ Bình Giã, hoặc hướng lộ 13, chùa Đại Tòng Lâm. Hướng sau này ta còn có thể mua gạo, thực phẩm, có khi được bà con cơ sở cho không, như từ Long Sơn, Bà Trao. Cảnh quang và địa thế vùng núi là tuyệt đẹp. trong núi có nhiều chùa, am như ở núi Thị Vải có chùa Chưng, chùa Giữa, chùa Tổ, ở núi Dinh có chùa Hang Mai và nhiều am nhỏ mà đường đi thì thông suốt bao đời. 
 
Đặc biệt, ở đây được địa phương, tỉnh, thị ủy Bà Rịa lúc ấy có anh Hai Võ, Bí thư thị ủy; anh Năm Quân, quận đội trưởng giúp đỡ tận tình. Chị Nguyễn Thị Mỹ Diệm, người của Khu Đoàn Sài Gòn - Gia Định cũ, giới thiệu với tỉnh ủy Đồng Nai; anh Phan Chánh Tâm có thân nhân tu ở trong chùa là nơi tin cậy, đều phối hợp để lo. Các đồng chí địa phương giúp đỡ cụ thể bằng cách chặt cây, phát quang, xây cứ rồi mới giao lại cho Thành Đoàn!
 
Các đồng chí Phạm Trọng Danh, Lê Minh Châu là những người chỉ đạo phương hướng, đồng chí Nguyễn Văn Kết, đồng chí Phan Văn Mùa, Tư Giang triển khai cụ thể, giao liên mở mũi có má Sáu Nguyễn Thị Hòa, các đồng chí vào điều lắng đầu tiên có Hai Hồ, Tư Trung. Các đồng chí Sáu Học, Châu Long, Hai Phước, Chính Sáng, Úy Ròm rồi sau đó đồng chí Sầm Thanh Liêm, cùng một tổ hai người, từ Củ Chi, mới băng qua Cần Giờ sông nước mênh mông, để tới nơi. 
 
Căn cứ này, bắt đầu triển khai tại núi Thị Vải đầu năm 1963 và tại núi Dinh năm 1963 đến tháng 10 năm 1966. Mới đầu, anh Phan Văn Mùa, người đến lo tiếp nhận, phát quang, dọn dẹp nơi chỗ. 
 
Khi tương đối ổn định, ở đây lực lượng 17 người gồm bảo vệ, cùng mấy anh em khác tham gia tải vũ khí từ tàu “không số”, phân phối súng vào ngõ Rừng Sát để tải qua Hắc Dịch. Để ủy lạo công việc này cho Thành Đoàn, chú Bảy, chỉ huy Trạm tiếp nhận súng của Quân khu 7, thưởng cho anh em hai khẩu súng trường bá đỏ mới rợi!

Các lớp học đầu tiên và tiếp sau
 
Đã có hai lớp tổ chức bên Hắc Dịch. Sau khi dời từ đỉnh núi gần chùa Tổ xuống, do khí hậu dốc núi ở trên đó không tốt sinh bệnh, đến một vách đá to rộng ở dưới, cạnh mọt lòng suối xong, thí lớp đầu tiên được tổ chức. Sau đoàn cán bộ từ Hắc Dịch được đó về, là lớp thứ hai bắt đầu. Các đồng chí đứng lớp có: Phan Chánh Tâm, Lê Minh Châu, Nguyễn Văn Kết, Đặng Quốc Hải (Chín Ngự, Chín Hải…)
 
Đến cuối năm 1963, do bên núi Dinh có những điểm thuận lợi hơn, nên có lệnh dời cứ qua đó. Từ nội thành căng thẳng, ngột ngạt ra, chợt leo lên đến Hang Mai, là có ngay một cảm gác mát rượi, thấy được vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. núi khuất trong sương lam, lát sau, tia nắng nhô lên, tạo cảnh quang rực rỡ, ấm áp. Trưa, có thể ngồi trên các gộp đá nhìn thẳng xuống thấy những khối nhà trắng toát ở Bà Rịa hoặc giàn ra - da của Mỹ ở Vũng Tàu. Tại đây, ta cũng có thể tiếp xúc với bộ đội, người đông “đếm không hết”, với súng, quân phục mới. Đây cũng là tuyến tiếp nhận các tàu vũ khí từ đường Hồ Chí Minh trên biển vào. Tại đây, ta cũng có dịp “đăng sơn quan trận địa”, như trận Bình Giã trước đó diễn ra trong suốt mấy ngày trời!
 
Ởû cứ núi Dinh, các lớp tập huấn được mở thường xuyên, trung bình mỗi lớp từ 60 đến 199 đồng chí, học viên được chia ra ở các khu như khu “nhà lầu” (các lán được dựng lên trên những tảng đá to), các dãy nhà tranh… các đồng chí: Hồ Hảo Hớn, Phan Chánh Tâm, Phạm Chánh Trực là người giảng bài. 
 
Tháng 4 năm 1964, số cán bộ tiếp tục vào học có đồng chí Ngô Tấn Dũng, chị Bảy Hà, Mười Triều vào núi Dinh. Từ chợ Bà Rịa đến Long Phước thay đồ bà ba đen, qua quốc lộ 2 rồi vào cứ ba mươi cây số. Đường xa, phải qua đồng trống, thường bị trực thăng phát hiện. Tới chân núi, phải lên “Dốc Cổ Cò” cao, trơn trợt, lại gặp mối rừng "đột kích", tới 21 giờ đếm mới tới cứ. Rồi lớp huấn luyện bắt đầu ngay. Các bài học cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, phương pháp công tác, có kết hợp giảng một số điều về triết để giải quyết một số quan điểm, tư tưởng của sinh viên, học sinh đô thị. 
 
Những sự việc ghi nhận trong ký ức những người vào cứ như xây dựng lò Hoàng Cầm để nấu là một kỳ công, đi săn để “cải hoạt” là việc làm lý thú, việc bắt và chuyền tay nhau chăm sóc, thuần dưỡng những con chim, vượn đem lại kiến thức về động vật học, tổ chức văn nghệ khi bế giảng lớp rất sôi động, đến việc lao động, sản xuất là cả một quá trình để sống và để cải tạo chính mình! Tất cả những công việc ấy, nay là ký ức nhớ đời!
 
Cuộc chiến đấu ác liệt và dời cứ
 
Đây là một trận đánh không cân sức vào ngày 10/10/1966, giữa một bên là lực lượng Mỹ - Ngụy gồm Úc, Thái Lan và Nam Triều Tiên, một bên là lực lượng mỏng của Thành Đoàn, thị ủy Bà Rịa, du kích địa phương. Chúng tấn công vào núi bằng hai đường: trực thăng từ trên đỉnh đánh xuống, bộ binh từ dưới tấn công lên! Lực lượng Thành Đoàn chủ yếu là học sinh, sinh viên, phần đông là nữ, với bảy tay súng bảo vệ. trận này có đồng chí Sáu Chí chỉ huy. Ta chủ trương vừa đánh, vừa rút bằng hai ngả: bằng đường công khai, bình tĩnh lấy lại thế hợp pháp, xuống núi ra lộ, như đồng chí Nguyễn Sơn Hà phải giả làm nhà sư. Cánh thứ hai, do bảo vệ đi đầu, đồng chí Phan Văn Mùa, Sáu Linh chỉ huy, xuống núi trong đêm an toàn, tới Hắc Dịch, nhờ giao liên Khu ủy miền Đông đưa về Trảng Bom rồi về lại Củ Chi, mất mấy ngày. Trận này, ta có bốn chiến sĩ anh dũng hy sinh: Hai Hùng, Hai Tùng, Hai Sơn. Một đồng chí hy sinh gần Cầu Sập đến nay không tìm được xác. 
 
Ngày nay, ta thường về núi Dinh - Thị Vải để tưởng niệm các liệt sĩ, tổ chức những cuộc hội trai, những cuộc họp mặt cơ sở Đoàn để ôn lại truyền thống, đến ơn đáp nghĩa. Để ghi nhớ truyền thống ấy, có bốn câu thơ:

Những người Cầu Sập, núi Dinh,
Hang Mai, chùa Tổ vẹn tình non sông. 
Ai về căn cứ Thành Đoàn,
Khắc ghi lời dặn vẹn tròn thủy chung.
 
VÕ NGỌC AN
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2012/10/16089/img008.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16016 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/16016 CLB Truyền thống Căn cứ Đại Tây Dương (1961 - 1962) Đầu tháng 4 năm 1961, Ban cán sự phân công đồng chí Nguyễn Văn Ly (Tư Kết) cùng đồng chí Mười Tươi, ông Năm đi xây căn cứ trường Đoàn ở Kinh Ba Reng xã Bình Hòa Bắc huyện Đức Huệ, Long An. Mon, 24 Sep 2012 07:50:32 +0700
Căn cứ Đại Tây Dương (1961 - 1962)

Đầu tháng 4 năm 1961, Ban cán sự phân công đồng chí Nguyễn Văn Ly (Tư Kết) cùng đồng chí Mười Tươi, ông Năm đi xây căn cứ trường Đoàn ở Kinh Ba Reng xã Bình Hòa Bắc huyện Đức Huệ, Long An. Căn cứ này giáp biên giới Campuchia, xa đồng bào và đồn bót giặc, xa bàn đạp ở Hiệp Hòa, Bàu Trai, nằm giữa cánh đồng bưng bao la có nhiều đìa cá và rắn. Tổ xây dựng cứ lúc đầu dựa vào công trường sản xuất vũ khí của Huyện Bình Tân để được tiếp tế thực phẩm và mua rựa, lưỡi hái cắt đưng, xin tre, trúc của đồng bào, đốn tràm ở vùng kế bên để xây dựng trường lớp, nhà ở học viên. Vùng kinh Ba Reng không có nước ngọt chỉ sử dụng nước mưa, nước kinh Ba Reng và các đìa gần kinh. Các đồng chí về đây xây cứ vào cuối mùa nắng, nước kinh cạn gần sát đáy có vị chua, nấu uống có người bị gắt tiểu. Đầu tháng 6 trời bắt đầu mưa, cơ quan Khu ủy do anh Ba Tôn phụ trách rần rộ về đây xây dựng trường lớp với quy mô cấp khu. Chỗ anh Ba Tô chỉ cách trường Đoàn độ 400m, Ban cán sự học sinh sinh viên cũng tăng cường cán bộ cho trường Đoàn để đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị mở lớp: đồng chí Nguyễn Thị Loan Anh (Năm Nga), đồng chí Đặng Quốc Hải (Chín Hải) làm cán bộ giảng huấn, đồng chí Tư Chánh phụ trách công tác quản lý, tiếp phẩm, đồng chí Nguyễn Thị Hiếu (Bảy Khẩn) nhiệm vụ y tá, đồng chí Út Thống giao liên bảo vệ. Cán bộ về làng có đồng chí Sáu Minh được phân công chép tin đọc chậm (đài Hà Nội). Cánh đồng chí Sáu Hội có hai cơ sở tình nghi nội gián của địch (Hai bánh Tét, tên Chín Tân) nhân dịp cũng đưa về căn cứ “xa xôi” này để an ninh Khu ủy điều tra xác minh.

Đầu tháng 7, Khu ủy mở lớp cho cán bộ chủ chốt các cánh đô thị trước khi đi vào hội nghị công tác tổ chức. Đầu tháng 8 sau lớp của khu ủy, căn cứ Đoàn mở lớp với số lượng học viên rất đông. Lớp bắt đầu học được mấy hôm mưa lũ tràn về, nước dâng lên rất nhanh. Các nhà học viên, hội trường, nhà bếp đều ngập nước, có nơi ngập sâu đến 2m. Khu ủy chỉ đạo mua xuồng để đi lại và cho mua ván kê sàn cho học viên ngồi học, ăn, nghỉ tại chỗ. Rắn rít các loại không còn chỗ ở, tràn vào các nóc nhà của học viên để lánh nạn nên có học viên (đồng chí Bảy Tiến) bị rắn cắn tuy có thuốc chữa trị vẫn bị tháo một khớp ngón tay. Bên ngoài các căn nhà lớp học là trời nước mênh mông như biển cả. Tên “Đại Tây Dương” được các đồng chí học sinh sinh viên đặt cho căn cứ kinh Ba Reng nhiều kỷ niệm này. Sau hội nghị ở căn cứ Khu ủy kế bên, đồng chí Nguyễn Thái Sơn phó bí thư Khu ủy sang căn cứ lớp triển khai nghị quyết của Khu ủy cho cánh học sinh sinh viên. Các cán bộ chủ chốt như Ba Lam, Năm Trang, Lê Hồng Tư, Lê Đình Nguyên, Sáu Thanh, Tư Liên đều về Đại Tây Dương học nghị quyết. Nếu so với các căn cứ trước đây, chưa lần nào cán bộ Đoàn về cứ học tập, dự triển khai nghị quyết đông như lần này. Lúc nước rút, đêm đến anh chị em khăn che mặt đổ ra sân ca hát nhảy múa vui như ngày hội.

Về mặt an ninh, căn cứ Đại Tây Dương do địa hình “biên giới” tạo được niềm tin an tâm cho cán bộ học viên nhưng vẫn có lần trước khi lũ dâng cao quân đội Campuchia tràn qua biên giới, làm cả bên trường lớp Khu ủy cũng được lệnh chuẩn bị rút sâu vào địa phận nước mình và chắc rằng nhà cửa sẽ bị đốt phá nhưng may quá, chúng tạt qua hướng sông Vàm Cỏ Tây nên không xảy ra sự cố nào. Mặt khác, có lẽ do khách về căn cứ dự hội nghị Khu ủy của các cánh đô thị và các đoàn học sinh sinh viên, tấp nập đi từ Hiệp Hòa Bầu Trai về cứ quá đông nên bị giặc phát hiện theo dõi. Khi nước lũ dâng lên, các lớp đang học, bọn gian trong đêm đi xuồng lẻn theo kinh Ba Reng cột chiếc bong bóng đỏ cạnh nhà bếp căn cứ học sinh sinh viên nhưng do bảo vệ cứ cảnh giới mỗi sáng sớm phát hiện quả bong bóng đem vào nhà và báo cho các đồng chí an ninh khu sang có ý kiến xử lý. Khi các đồng chí an ninh sang, nghiên cứu chỗ cột bong bóng, xem tờ giấy có mấy chữ cột dính dây treo bong bóng đại ý “Lâu quá không gặp em, anh tìm hoài khắp nơi”, thì cũng là lúc chiếc “đầm già” bay sát mái nhà, quần đảo nhiều vòng… các đồng chí an ninh kết luận “chiếc bong bóng đỏ” là của bọn thám báo lén cột ban đêm, mấy chữ viết trên tờ giấy để nghi trang đánh lạc hướng đề phòng khi bị bắt, nếu anh em bảo vệ không cảnh giới gỡ chiếc bong bóng thì chiếc đầm già sẽ phát hiện kêu không quân địch đến đánh phá, thiệt hại sẽ khó lường.

Sau hội nghị Khu ủy và các lớp học của học sinh sinh viên ở căn cứ Đại Tây Dương, địch bắt đầu sử dụng chiến thuật trực thăng chụp xuống căn cứ Vườn Thơm. Tuy không gây thiệt hại, nhưng Khu ủy chỉ đạo cho cánh học sinh sinh viên và trường lớp Khu ủy ở Đại Tây Dương phải nhanh chóng dời về căn cứ Miền Đông có địa đạo, rừng cây bảo toàn lực lượng. Vì thế suốt thời gian từ đầu 1962 đến khi chiến thuật trực thăng vận kết hợp thiết vận xa bị thảm hại ở Ấp Bắc, chiến thuật “tối tân” này của Mỹ đã không gây tổn thất cho các cánh đô thị của khu Sài Gòn - Gia Định.

NGUYỄN VĂN LY


]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15995 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15995 CLB Truyền thống Căn cứ đầu tiên: ấp Bàu Kính, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi (1960) Trên tinh thần Nghị quyết 15 chuyển hướng tiến công địch theo đường lối đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, thực hiện chủ trương chiến lược của Khu ủy phải khẩn trương xây dựng căn cứ địa làm hậu phương cho phong trào cách mạng đô thị, tháng 8 năm 1960, Liên chi Học sinh - Sinh viên liên hệ cấp ủy địa phương để thành lập căn cứ đầu tiên của mình. Fri, 21 Sep 2012 14:20:11 +0700
Căn cứ đầu tiên: ấp Bàu Kính, xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi (1960)
   
Trên tinh thần Nghị quyết 15 chuyển hướng tiến công địch theo đường lối đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, thực hiện chủ trương chiến lược của Khu ủy phải khẩn trương xây dựng căn cứ địa làm hậu phương cho phong trào cách mạng đô thị, tháng 8 năm 1960, Liên chi Học sinh - Sinh viên liên hệ cấp ủy địa phương để thành lập căn cứ đầu tiên của mình. Căn cứ được đặt tại vùng đất vừa được giải phóng của huyện Củ Chi thuộc địa bàn đặc khu Sài Gòn - Gia Định mới được thành lập, vị trí tương đối gần thành phố, thuận tiện cho công tác chỉ đạo, điều lắng, mở lớp… phục vụ nội thành.

Đó là căn cứ nằm trong khu rừng chồi có chiều ngang và dài từ 200-300m, sau lưng tiếp giáp với rừng cao su Sở Ớt, trước mặt gắn liền với xáng Bưng của ấp Bàu Kính xã Nhuận Đức, trung tâm có địa đạo dài trên 80m được đào hồi chín năm đã cho sửa sang lại, miệng công khai ở giữa rừng, miệng bí mật ở cuối đầu kia trở lên ngay bìa rừng cao su, rất tiện cho việc bảo vệ lực lượng và bí mật rút đi khi địch càn vào. Bàn đạp liên lạc với nội thành ở nơi đây được mở ra nhiều ngỏ, dọc các trục lộ của xã Phú Hòa Đông, chợ Bàu Cơ, thuận lợi cho công tác chỉ đạo đưa đón khách ra vào làm việc, học tập. Cho nên tuy nhỏ, nhưng vị thế căn cứ khá vững, phục vụ đắc lực cho phong trào nội thành.

Tại căn cứ mới xây dựng này, đồng chí Nguyễn Thái Sơn (Bảy Bình, Phó Bí thư Khu ủy họp các đồng chí liên chi công bố quyết định thành lập Ban cán sự Học sinh - Sinh viên, là cấp ủy tương đương quận, huyện ủy, chỉ định đồng chí Trần Quang Cơ (Tám Lượng) làm Bí thư, đồng chí Hồ Hảo Hớn (Ba Lực) là Phó Bí thư, các ủy viên là những đồng chí còn lại trong liên chi. Trong dịp này, đồng chí Nguyễn Ngọc Thưởng được Ban cán sự phân công Chánh Văn phòng, đồng chí Nguyễn Văn Lê làm Phó Chánh Văn phòng. Khu ủy cũng điều động đồng chí Nguyễn Thị Minh (Ba Tiến) cán bộ bàn đạp giao liên giỏi của Khu ủy về phụ trách bàn đạp giao liên cánh Học sinh - Sinh viên.

Công việc của Ban cán sự thời gian này tại căn cứ rất khẩn trương, dồn dập, vừa chỉ đạo phong trào nội thành liên tục đấu tranh, tấn công kẻ thù, vừa điều hành bộ máy văn phòng mới hình thành gồm giao liên, du kích, văn thư, in ấn, y tế, cơm nước, bảo vệ… vừa mở lớp huấn luyện cán bộ Đoàn. Lớp thứ nhất tại căn cứ đầu tiên này có trên 10 học viên được tiến hành trong tình hình “đồng khởi” dâng trào khắp miền Nam. Sau lớp học cán bộ Đoàn trở về nội thành với quyết tâm mới, phương pháp công tác và khí thế mới.

Lớp thứ hai được tổ chức sau Tết Nguyên đán năm 1961, được mấy hôm thì được tin địch càn quét. Ban cán sự chỉ đạo toàn căn cứ chuẩn bị đồ đạc, võng ni lông, tài liệu… gọn nhẹ để chui địa đạo. Bọn giặc càn vào cứ nhanh quá. Các đồng chí rút xuống địa đạo còn lộ lưng người sau cùng. Địch phát hiện ném lựu đạn xuống ngay miệng hầm, nhưng các đồng chí đã kịp rút vào khỏi khúc quanh nên không ai bị thương. Chúng trụ quân lại, bao vây và xin lệnh cho công binh đánh sập địa đạo. Nhờ người của ta cài sẵn bên trong nên điện xin lệnh chậm trình đến Bộ Chỉ huy ở Sài Gòn. Mãi đến sáng ngày sau, chúng mới nhận được lệnh đánh địa đạo. Đêm đó, Ban cán sự đã mạnh dạn chỉ đạo cho bảo vệ trồi lên ở nắp bí mật, mở đường âm thầm rút toàn bộ lớp học thoát khỏi vòng vây chỉ cách địch hơn chục mét, tìm về địa điểm mới. Nếu Ban cán sự không sáng suốt, dũng cảm cho “mở đường máu” rút đi, thì chắc chắn sáng hôm sau, lực lượng ta sẽ bị tổn thất nặng vì địch tập trung đặt chất nổ phá tung địa đạo.

Vậy là căn cứ đầu tiên của Học sinh - Sinh viên ở Xóm Bưng đã kết thúc nhiệm vụ. Nhưng sau mấy tháng ròng rã ngày đêm nỗ lực công tác tại đây, cánh học sinh sinh viên đã hoàn thành khá tốt các nhiệm vụ chỉ đạo phong trào nội thanh, chớp thời cơ đảo chánh Diệm ngày 11/11/1960, đẩy mạnh đấu tranh, phát triển nhanh lực lượng, xây dựng lực lượng bộ máy căn cứ hoạt động tốt tham gia chào mừng ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ngày 20/12/2960 và bảo vệ an toàn lực lượng khi địch đánh phá. Căn cứ đầu tiên được thành lập kịp thời đã đưa cán bộ về điều lắng, học tập, ngăn chặn sự bể bạc dây chuyền đang diễn ra từ trước, giúp phong trào đô thị chuyển mình tiến công địch, mở ra khả năng mới, khả năng làm cơ sở, hậu phương, bảo đảm cho phong trào đô thị tiến lên một cách căn cơ vững chắc, không còn lâm vào thế hiểm nghèo như trước đây. Có thể nói căn cứ đầu tiên này là mô hình để ta tiếp tục phát huy mở rộng xây dựng nhiều căn cứ và ngày càng tốt hơn, phục vụ đắc lực hơn cho phong trào đô thị ngày một phát triển.

NGUYỄN VĂN KẾT


]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15985 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15985 CLB Truyền thống Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam 1974-1975 Bước vào năm 1974, tình hình chính trị quân sự, tương quan lực lượng đã nghiêng hẳn về phía cách mạng. Ngụy quân Ngụy quyền đang trên đà ngày một suy yếu, phân hóa, cô lập cao độ. Chấp hành sự chỉ đạo của Thành ủy, vào cuối tháng 01/1974, chuẩn bị cho hướng chiến lược giải phóng Sài Gòn sau này, toàn bộ lực lượng Thành Đoàn được tổ chức phân ra 2 cánh: cánh A và cánh B. Wed, 19 Sep 2012 10:44:35 +0700

PHẦN NĂM - Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam 1974-1975


Tháng 1/ 1974 đến cuối năm 1974: Về Long Khánh

Bước vào năm 1974, tình hình chính trị quân sự, tương quan lực lượng đã nghiêng hẳn về phía cách mạng. Ngụy quân Ngụy quyền đang trên đà ngày một suy yếu, phân hóa, cô lập cao độ. Chấp hành sự chỉ đạo của Thành ủy, vào cuối tháng 01/1974, chuẩn bị cho hướng chiến lược giải phóng Sài Gòn sau này, toàn bộ lực lượng Thành Đoàn được tổ chức phân ra 2 cánh: cánh A và cánh B. Cánh A chuyển về Long Khánh - Bà Rịa để chuẩn bị vào hướng Đông Bắc Sài Gòn. Cánh A do đồng chí Phạm Chánh Trực và đồng chí Trương Mỹ Lệ phụ trách. Còn cánh B trụ lại Củ Chi, sẽ vào hướng Hóc Môn - Gia Định. Cánh B do đồng chí Trần Văn Nguyên, đồng chí Võ Văn Cương, đồng chí Đoàn Văn Khuy phụ trách. Đoàn đi Long Khánh đợt đầu gồm các đồng chí Huỳnh Văn Minh (Ba Dừa) phụ trách, đồng chí Phan Công Trinh (Năm Thế), đồng chí Ngô Văn Ích (Tư Long), đồng chí Sáu Phương (bảo vệ), đồng chí Bảy Thuận. Được sự giúp đỡ của các đồng chí Thị ủy Long Khánh, căn cứ Thành Đoàn đã được xây dựng đầu tiên ở Suối Rết xã Bảo Vinh.

Khoảng cuối tháng 6/1974 một đoàn thứ hai, chủ yếu là cánh sinh viên và quân sự gồm các đồng chí Dương Văn Đầy, Trần Văn Khánh, Trần Thị Ngọc Hảo, Nguyễn Đình Mai, Ba Thức, Đỗ Hữu Ứng cùng một số đồng chí khác đến Long Khánh đóng ở nhiều cụm tại suối Bà Lâu, vùng Thọ Vực, cách Bảo Long 10km, do đồng chí Dương Văn Đầy phụ trách; cụm đóng sát rẫy (bí đỏ, bắp) sát rừng do đồng chí Trần Thị Ngọc Hảo phụ trách, cụm đóng tại suối Rết do đồng chí Phan Công Trinh phụ trách. Cánh quân sự đóng ở Bình Lộc giáp Bảo Vinh và một cụm do đồng chí Đỗ Thiết Hùng phụ trách.

Đến tháng 10/1974, Văn phòng, cánh Thanh niên công nhân, cánh Học sinh do đồng chí Tư Nhơn làm trưởng đoàn, đồng chí Đỗ Tiến Lực phó đoàn chuyển đến Xuân Lộc (Long Khánh) xây cứ. Cho đến cuối năm 1974 thì các cánh của Thành Đoàn đã chuyển hết về Long Khánh, trừ cánh Thanh niên nông thôn và trường Đoàn Lý Tự Trọng còn bám lại đất Củ Chi, Bến Cát.

Ở căn cứ Long Khánh, bom pháo không ác liệt như Củ Chi, Bến Cát. Dân ban ngày về làm rẫy, chiều trở lại ấp chiến lược hoặc vùng tạm chiếm. Do đó bàn đạp giao liên đưa đón khách ra vào cũng có phần thuận lợi. Ta cũng xây dựng được người tại chỗ làm giao liên. Mỗi cụm, mỗi bộ phận đều xây dựng được bàn đạp giao liên riêng. Do đó, các cánh đã tranh thủ mở được nhiều lớp học bồi dưỡng cho cán bộ, cơ sở bên trong nội thành, chủ yếu là lớp ngắn hạn. Căn cứ không ở trong nhà dân, nhưng có rừng lớn nên các đồng chí đốn cây rừng về cất nhà. Nhà lợp lá trung quân, một loại lá có rất nhiều ở vùng này, có đặc điểm đốt không cháy, mái lá mỏng, lá khô màu đỏ trông đẹp mắt và mát mẻ. Đời sống tương đối tốt, có đủ loại rau rừng, rau rẫy, cây trái, thịt rừng do đặt bẫy và đi săn. Tuy nhiên, đây là vùng bệnh sốt rét hoành hành, kể cả rét ác tính, rất nhiều đồng chí bị bệnh nặng…, mặc dù các đồng chí cũng chọn điểm cách ly với rừng để đóng căn cứ. Căn cứ này địch chưa phát hiện, nhưng cũng có ba lần chúng càn vào, trong đó có hai lần tương đối lớn và không kéo dài, chỉ có một lần chúng càn khoản 1 tuần lễ ở khu vực căn cứ của Thành ủy, bị lực lượng bảo vệ đánh thiệt hại năng, bên ta có một đồng chí hy sinh.

Chuẩn bị vào chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975.


Cuối năm 1974 đến tháng 3/1975: Từ Long Khánh chuyển về Tam Hiệp (Châu Thành - Mỹ Tho) để chuẩn bị vào hướng Tây Nam Sài Gòn, vào chiến dịch Hồ Chí Minh

Giữa năm 1974, xuất hiện nhiều yếu tố thuận lợicó ý nghĩa chiến lược. Trung ương dự kiến thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam sắp xảy ra, tung đòn trinh sát chiến lược giải phóng Phước Long vào cuối năm 1974, thăm dò khả năng quay lại Việt Nam của Mỹ và khả năng tái chiếm của ngụy. Sau đó lực lượng ta đánh chiếm Buôn Mê Thuột giải phóng Tây Nguyên, mở màn cho việc thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất. Sau đó chiến dịch giải phóng Trị Thiên - Huế, địch buộc phải “co cụm chiến lược” cố thủ Đà Nẵng và giữ từ bắc Bình Định trở vào. Ngày 18/3/1975, Bộ chính trị họp nhận định tình hình và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa mưa 1975.

Ở Nam bộ, từ sau chiến dịch giải phóng Phước Long và Tây Nguyên, thực hiện chủ trương của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, ta đã làm thông suốt hành lang Tây Ninh xuống miền Trung và miền Tây Nam Bộ, nhổ một số đồn bót phá các ấp chiến lược ở các vùng tiếp cận xung quanh Sài Gòn như Củ Chi, Bến Cát, Bình Chánh, Thủ Đức, tạo ra nhiều lõm giải phóng trong tháng 3 và đầu tháng 4. Vùng giải phóng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cũng được mở rộng. Ngụy quân Ngụy quyền vô cùng hoang mang rệu rã, suy sụp ý chí chống lại cách mạng.

Tất cả các cơ quan, các ngành các cấp đều được lệnh khẩn trương chuẩn bị lực lượng mọi mặt, sẵn sàng cho đại cuộc giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam khi thời cơ đến. Bộ phận căn cứ Thành Đoàn đóng ở xã Mỹ Long, Cao Lãnh, Đồng Tháp được lệnh chuyển về xã Tam Hiệp, huyện Cai Lậy, Mỹ Tho nhập cùng cánh Tây Nam của Thành ủy do đồng chí Nguyễn Văn Thuyền (Ba Tôn) Thường vụ Thành ủy phụ trách, đóng trên bờ Kinh Năng. Căn cứ này lúc bấy giờ do đồng chí Nguyễn Thị Châu, Phó Bí thư Thành Đoàn và đồng chí Hoàng Đôn Nhật Tân phụ trách. Sau, các đồng chí có mở mũi thêm ở Chợ Gạo nhưng không phát huy được tác dụng nên rút về.

Tại căn cứ Long Khánh, các đồng chí điều lắng được lần lượt bố trí theo đường công khai vào nội thành Sài Gòn, chuẩn bị lực lượng cho 5 khu vực khởi nghĩa bên trong nội thành, gồm các đồng chí Trương Mỹ Lệ, Trần Thị Ngọc Hảo, Hứa Thị Tuyết Hoa, Trần Thị Mỹ Thành, Phan Công Trinh, Nguyễn Thị Nghĩa.

Sau Tết, khoảng giữa tháng 2 năm 1975, một số bộ phận Thành Đoàn được lệnh chuyển quân về áp sát Sài Gòn. Đồng chí Ngô Văn Ích, Nguyễn Đình Mai (Ba Nguyên) đi mở mũi ở Túc Trưng, Định Quán. Đồng chí Lê Thanh Hải (Hai Nhựt) và một số đồng chí cũng được lệnh chuyển đi.

Vào cuối tháng 3/1975, hầu hết các đồng chí của các bộ phận còn lại ở Long Khánh tiếp tục lên đường, do đồng chí Trương Tấn Biên làm Trưởng đoàn, đồng chí Đỗ Tiến Lực làm Phó đoàn. Lúc này, Đà Nẵng đã được giải phóng. Ai nấy đều phấn khởi háo hức muốn nhanh chóng tiến về Sài Gòn để chiến đấu trong trận cuối cùng. Đoàn đã tháp tùng cùng cánh Đông Bắc của Thành ủy tất cả độ 200 người hành quân bằng xe cơ giới do Liên Xô viện trợ tiến về Củ Chi - Bến Cát. Tuy nhiên, lúc này, địch đang ra sức cố bảo vệ Sài Gòn, sào huyệt sống còn cuối cùng, nên chúng bố phòng dày đặc. Đoàn xe nối đuôi nhau chạy trong vùng giải phóng thênh thang, nhưng đến Đồng Xoài thì không đi thẳng về Sông Bé để đến Bến Cát Củ Chi mà đi về Bình Long. Thành ủy đã chủ trương chuyển hướng tiến quân vào Sài Gòn bằng ngã Tây Nam, nơi địch bố phòng mỏng hơn. Dọc đường, các đồng chí ta chứng kiến được chiếc phản lực do phi công phản chiến Nguyễn Thành Trung, sau khi bỏ bom ở Dinh Độc Lập, đã bay về vùng giải phóng, bung dù đáp xuống địa phận Bình Long. Đoàn đã vòng qua đất bạn Campuchia để đến Long An. Từ đây sẽ vượt sông Vàm Cỏ tiến vào Sài Gòn.

Chuẩn bị vào chiến dịch Hồ Chí Minh, toàn bộ lực lượng bên ngoài của Thành Đoàn hội quân trên căn cứ xã Tam Hiệp, đã cùng với các lực lượng khác và Bộ Chỉ huy tiền phương của thành ủy, tiến vào Sài Gòn.

Như vậy, căn cứ Tam Hiệp là căn cứ đứng chân (chỉ trong 2 tháng) để tập kết tiến quân vào và cũng là căn cứ cuối cùng của Thành Đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

*

*      *


Nhìn lại quá trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, kể từ khi Thành Đoàn - theo chủ trương của Khu ủy - xây dựng căn cứ đầu tiên vào năm 1960 cho đến ngày tiến quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam là một chặng đường liên tục kéo dài 15 năm. Đó là cuộc chiến đấu giành giựt một mất một còn, giữa một bên dùng các loại phương tiện chiến tranh càn quét khốc liệt, quyết tiêu diệt và một bên quyết bám trụ bằng ý chí, mưu trí và sức người để làm nhiệm vụ hậu phương, phục vụ phong trào đấu tranh của tuổi trẻ trong thành phố. Nơi đây, cái chết, thương tật và tù đày cùng với nhiều cuộc chiến đấu sống mái với quân thù, có thể xảy đến bất cứ lúc nào, cùng với biết bao gian khổ và căng thẳng vẫn cứ diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Cho nên chấp nhận sống và công tác tại vùng căn cứ cũng là hành động anh hùng. Tất cả những ai nằm xuống nơi đây dù trong trường hợp nào cũng đều là hy sinh anh hùng. Và bất luận căn cứ nào của Thành Đoàn diễn ra trong lịch sử đều thấm đẫm khí phách anh hùng và mưu trí sáng tạo vượt qua khó khăn thử thách của tuổi trẻ Sài Gòn. Trong quá trình 15 năm ấy, cho dù địch đánh phá ác liệt, chưa lúc nào cán bộ chiến sĩ Thành Đoàn chịu rút lui bỏ trống trận địa này.

Lịch sử xây dựng hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong những năm chống Mỹ (từ 1960 - 1975) trải qua 12 tỉnh thành, xây dựng hàng trăm căn cứ bàn đạp giao liên. Trải qua bao gian khổ, nhiều đồng chí hiến dâng cả tuổi xuân cho cách mạng, bị tù đày, hy sinh… đến nay trên 250 liệt sĩ phần lớn đã tìm được hài cốt để quy tập về nghĩa trang, nhiều đồng chí còn mang nặng nhiều vết thương, đã viết lên những trang sử hào hùng để lại cho thế hệ trẻ thành phố hôm nay.

Lịch sử xây dựng các căn cứ Thành Đoàn, là lịch sử của cuộc trường chinh gian khổ, lao động quên mình, chiến đấu hy sinh oanh liệt

Công tác dân vận xuất sắc, được Đảng, chính quyền, nhân dân tin yêu đùm bọc và bảo vệ, đi dân nhớ, ở dân thương. Mưu trí dũng cảm giữ vững mạch máu giao thông, phục vụ chỉ đạo xuyên suốt an toàn trên khắp các địa bàn trong những điều kiện muôn vàn khó khăn.
Căn cứ Thành Đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và vai trò lịch sử của mình trong suốt 15 năm kháng chiến chống Mỹ.

Căn cứ Thành Đoàn là chiến tích của Thanh niên thành phố anh hùng, đơn vị anh hùng.

Căn cứ Thành Đoàn trở thành vùng đất thiêng để tuổi trẻ thành phố hướng về học tập và tự hào mãi mãi!

BAN CHỦ NHIỆM CÂU LẠC BỘ TRUYỀN THỐNG THÀNH ĐOÀN



]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15958 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15958 CLB Truyền thống II. Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn “Đánh cho Mỹ cút” 1971 - 1973: Tháng 12/1973, vùng giải phóng phía Tây Nam Sài Gòn đã mở rộng. Thành Đoàn cử một bộ phận cánh Học sinh và cánh Thanh niên công nhân gồm 8 người: Hoàng Đôn Nhật Tân, Lâm Văn Tiếp, chị Tám Thanh, Nguyễn Minh Lân, Tư Trung, Tư Đời, Út Đậm, Thạnh mở mũi đi xây cứ tại xã Mỹ Long, huyện Kiến Văn (nay là Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), dự phòng cho sau này. Fri, 14 Sep 2012 08:48:23 +0700
II. Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn “Đánh cho Mỹ cút” 1971 - 1973:

Trong chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, địch tiến hành các đợt bình định cấp tốc, bình định đặc biệt, bình định bổ túc, chiếm lại phần lớn vùng giải phóng với hệ thống đồn bót bủa giăng dầy đặc và thọc sâu ở khắp nơi, cùng với sự hình thành hàng ngàn ấp Tân Sinh, ấp Đời Mới, lùa dân vào vùng chúng kiểm soát làm nguồn nhân lực chủ yếu cho việc tăng quân, nhằm cô lập và triệt hạ các lực lượng cách mạng ở nông thôn, đẩy quân chủ lực giải phóng ra khỏi “lãnh thổ”. Thừa thế, ngày 18/3/1970, Mỹ tổ chức lật đổ chính phủ trung lập Sihanouk, lập chính quyền tay sai Cheng Heng-Lonnol Sirikmatak, tạo thế liên kết phản cách mạng thân Mỹ Việt Nam, Lào và Campuchia, trong âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược Campuchia, Lào nhằm tiếp tục truy diệt quân chủ lực giải phóng Việt Nam, ngăn chặn tất cả mọi con đường chi viện từ phía Bắc và từ cảng Sihanoukville. Mỹ tưởng rằng sẽ tiêu diệt được cách mạng của cả ba nước Đông Dương, nhưng thực tế diễn ra hoàn toàn trái ngược lại ý đồ của Mỹ.

Cuộc xâm lược tiến sâu vào lãnh thổ Campuchia ngày 30/4/1970 của 100.000 quân Mỹ - ngụy, cướp bóc tàn sát nhân dân, đốt phá phum sóc, chùa chiền đã làm bật dậy làn sóng căm phẩn của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận thống nhất dân tộc và quân đội cách mạng Campuchia đã nhanh chóng thành lập, được nhân dân ủng hộ, đã liên kết cùng quân giải phóng Việt Nam chiến đấu tiêu diệt nhiều đơn vị chủ lực Mỹ Ngụy, kềm chân và làm sa lầy chúng tại đây, giải phóng được một số vùng rộng lớn. Các lực lượng cách mạng ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia xác định “Toàn Đông Dương là một chiến trường thống nhất” chống Mỹ ngụy, cam kết cùng nhau chiến đấu đánh đuổi kẻ thù chung là quân xâm lược Mỹ và tay sai.

Việc đưa một bộ phận quan trọng quân chủ lực sang Campuchia tháng 4/1970, tiếp theo tiến hành cuộc hành quân Lam Sơn 1971 vào lãnh thổ Lào và một số cuộc hành quân lớn khác ở Tây Nguyên đã làm giảm sức ép quân sự trên các tỉnh đồng bằng Nam Bộ và làm mất lưng dựa cho công cuộc bình định nông thôn, là thời cơ cho các lực lượng cách mạng tại chỗ ở nông thôn gượng dậy và phát triển mới, lấy lại thế tiến công, làm thay đổi tương quan lực lượng. Đây là một sai lầm chiến lược của Mỹ không thể cứu vãn. Tiếp theo, chiến dịch xuân hè (mùa hè đỏ lửa) năm 1972 của quân giải phóng, tiếp tục kéo quân chủ lực Mỹ Ngụy ra Quảng Trị, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng và kềm chân chúng. Mặt khác, kết hợp cao trào đấu tranh chính trị ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam mang nội dung chống xâm lược Mỹ, đã đảo chính quyền Thiệu Kỳ tay sai, với mức độ bạo lực cao, chiếm Tòa Đại sứ Lonnol, đốt xe Mỹ, chiến dịch tấn công chính trị của học sinh sinh viên “Hát cho đồng bào tôi nghe” đánh trả các lực lượng đàn áp bằng các loại phương tiện tự tạo… và phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ lên cao. Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh không đạt yêu cầu mong muốn của Mỹ. Ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn bị cô lập, suy sụp nghiêm trọng. Trận “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân miền Bắc đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội là đòn quyết định cuối cùng đánh quỵ ý chí trực tiếp xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ ký hiệp định Paris tháng 1/1973, công nhận chủ quyền độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, ngưng ném bom miền Bắc, rút hết toàn bộ quân Mỹ và đồng minh ra khỏi Việt Nam…

Vùng giải phóng và các lực lượng cách mạng đã nhanh chóng phát triển mở rộng, thậm chí hơn cả thời kỳ trước Mậu Thân, xét về tương quan lực lượng.

Tất cả tình hình trên có ảnh hưởng quyết định đến việc bố trí lại và xây dựng căn cứ địa cách mạng của Thành ủy Sài Gòn nói chung và Thành Đoàn nói riêng.

Đầu năm 1971 đến 1972:

- Về sông Sở Thượng, sông Hậu, biên giới Campuchia

Những tháng đầu năm 1971, toàn bộ các cánh của Thành Đoàn đóng trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long đã rút hết về vùng sông Sở Thượng thuộc tỉnh Prey Veng. Bấy giờ, vùng giải phóng trên đất bạn đã được mở rộng thênh thang, căn cứ Sở Thượng lúc này tương đối yên bình, lương thực thực phẩm sung túc. Các cơ quan đóng trong các gia đình Việt Kiều và các phum sóc dọc theo bờ sông Sở Thượng vùng Gò Mã Đá và Cồn Cò. Việc đi lại chủ yếu bằng xuồng máy. Bàn đạp mở ra các ngã Hồng Ngự, hoặc sang Vĩnh Lợi Trinh qua Thường Lạc, Thường Phước về Châu Đốc. Lực lượng bảo vệ giao liên được xây dựng thêm trong bà con Việt kiều như Tư Minh, bé Sang, Tư Thẩm, Sáu Hương, Tư Kiên, Sáng… trong đội bảo vệ, Ánh, y tá. Chị Hai Mạnh, chị Sáu Phú, bé Mai, bé Ngọc, bé Hiếu, má Năm Xuân… là giao liên. Bàn đạp do đồng chí Đỗ Hữu Ứng (Sáu Tĩnh), cán bộ phong trào về điều lắng, phụ trách.

Căn cứ Sở Thượng cũng có nhiều điểm bất lợi, địa hình trống trải, khó che dấu lực lượng, là nơi buôn bán tấp nập, gián điệp dễ trà trộn, đường dây chỉ đạo vào thành phố quá xa không kịp đáp ứng yêu cầu của phong trào và phải qua nhiều chặn chốt kiểm soát của địch. Trong thời gian này ta có đưa một số cán bộ về làm việc và học tập. Nhưng chỉ vài tháng sau giữa năm 1971, địch đánh hơi, căn cứ bị lộ, thường xuyên bị đánh phá bằng bom pháo, trực thăng quần đảo bắn dọc hai bờ sông bất kể dân thường đang sinh sống làm ăn đông đúc. Xóm làng tan hoang, nhiều người dân bị chết, bị thương. Đồng chí Lê Doãn Sĩ (Tư Thanh, Mười Chín) bị nổ trái bom bi hy sinh, đồng chí Lê Hồng Kỳ bị thương nặng.

Tháng 7/1971, theo chỉ đạo của Thành ủy, Thành Đoàn dời cứ vào sâu bên trong, sang bờ tây sông Bassac xây cứ mới ở Phum Chô xã Tim Flơn, huyện Kpông Kông, tỉnh Cần Đan (Kandal). Tại đây, Thành Đoàn đã đưa nhiều nòng cốt công khai của phong trào học sinh sinh viên mở lớp bồi dưỡng.

Tháng 12/1971, theo chỉ đạo của Thành ủy, căn cứ Thành Đoàn lại dời lên phía bắc tỉnh Soài Riêng (Svayrieng), đóng ở vùng Têra-Plêông, Đồng Cân, Chô, Tà Nốt tỉnh Kampong Trapec.

Thành Đoàn đưa một số cốt cán bám trở lại Sài Gòn truyền đạt chỉ đạo và hỗ trợ phong trào đấu tranh chống bầu cử độc diễn của Nguyễn Văn Thiệu gồm có các đồng chí Triệu Công Tinh Trung, Hoàng Đôn Nhật Tân, Hà Văn Hùng (Tám Ngữ), Nguyễn Kiến Quốc (Năm Hùng), Nguyễn Văn Ngàn (Năm Mới)…

Tháng 12/1971 - 3 /1973:

- Xã Hòa Mỹ, xã Hòa An, Kinh Cùng (Phụng Hiệp - Cần Thơ)

Đồng thời cũng vào cuối năm 1971, Thành ủy quyết định đưa hai đoàn ủy học sinh và sinh viên chuyển về địa bàn miền Nam xây cứ để chỉ đạo phong trào kịp thời. Đồng chí Tư Liêm được cử đi tiền trạm về Phụng Hiệp Cần Thơ, quê hương của đồng chí Lê Minh Châu (Ba Cảnh). Lúc bấy giờ vùng giải phóng ở đây được mở rộng, được các đồng chí địa phương, đồng chí Nguyễn Hoàng Vũ (Mười Vũ, Năm Mới) phụ trách Quân báo Tỉnh Đội Cần Thơ nhiệt tình giúp đỡ. Đoàn ủy Học sinh Sinh viên về đây được nghi trang là một đơn vị quân báo của tỉnh đội, đóng ở hai xã Hòa Mỹ, thuộc huyện Phụng Hiệp tỉnh Phong Dinh, xã Hòa An, Kinh Cùng thuộc tỉnh Chương Thiện, theo địa giới hành chính ngụy lúc bấy giờ. Đây là vùng sông nước, ghe xuồng tấp nập trên các kinh đào, gạo trắng nước trong, nhưng lại là vùng rất nhiều muỗi, đỉa, vắt nổi tiếng đã hình thành câu thiệu “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh”. Đoàn ủy học sinh đóng trên kinh Xáng Lá Hiếu, kinh Xẻo Môn và kinh Đập Đá, kinh Nhà Nước. Đoàn ủy sinh viên đóng dọc kinh Xáng Bộ tiếp cận với căn cứ quân báo tỉnh. Ở đây căn cứ được gia đình chú Nguyễn Văn Gương (Tám Gương), anh Trần Ngọc Huê, chú Bùi Công Luận (Ba Luận) giúp đỡ, che chở tận tình. Đoàn ủy học sinh có các gia đình Nguyễn Văn Ngọc, bác Nguyễn Văn Phẩm (Ba Mười Lượng), chú Nguyễn Thành Tây và Nguyễn Văn Quận (Hai Quận).

Bàn đạp căn cứ ra nhiều ngã rất thuận lợi bằng xuồng máy cơ động, như chợ thị trấn Kinh Cùng, hoặc ra phía Hòa Mỹ, Phụng Hiệp. Ta có đặt bàn đạp ở Kinh Nhà nước, trạm nút ở nhà chị Hồ Thị Hợi, Đặng Thị Bảy (má Bảy), Bùi Thị Đức (má Đức). Tại Kinh Cùng (thị trấn) có nhà bác Trần Văn Sương… Tại Cái Tắc có nhà Lê Kim Chi (chị Hai), anh Nguyễn Văn Đệ… và các trạm Đầu Sấu, trạm cầu Bắc Cần Thơ, trạm Bảy Ngàn, trạm Vĩnh Long…

Căn cứ nằm ở hai tỉnh khác nhau, nên thuận lợi, địch càn bên này thì chạy sang bên kia. Tuy gần địch nhưng phía sau là vùng giải phóng. Đoàn ủy học sinh có đồng chí Tư Liêm phụ trách, và các đồng chí Lê Thanh Hải, Phan Hồng Quân, Đỗ Tiến Lực, Hà Văn Hùng, Lâm Văn Tiếp, Nguyễn Vân Vũ, Trương Minh Nhựt, Huỳnh Kim Quang, bảo vệ cứ và cán bộ điều lắng có các đồng chí Bảy Thép, Sáu Nhã, Ba Trương, Tám Hoàng, Năm Thắng, Mười Luận… tất thảy có hơn 30 cán bộ và chiến sĩ. Đoàn ủy Sinh viên do đồng chí Dương Văn Đầy (Bảy Không) phụ trách có các đồng chí Trần Thị Ngọc Hảo (Tư Tín), Hai Nam, Hai Thủy, Trương Anh Dũng, Trần Thị Ngọc Dung, Năm Sao, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Quan Thư (Tư Vinh)… phụ trách giao liên có đồng chí Bảy Nhuận.

Căn cứ Cần Thơ liên tục mở lớp ngắn ngày cho cán bộ đầu mối phụ trách các trường hơn 100 lượt người. Tuy gian khổ vì môi trường đỉa, vắt, muỗi, địch càn quét liên tục, nhưng đây là môi trường rèn luyện tốt, được trang bị nhận thức toàn diện, cán bộ trưởng thành vững vàng. Đây còn là nơi điều lắng, học quân sự đảm đương việc bảo vệ căn cứ. Có lần địch bắn pháo làm đồng chí Trần Văn Lý (Bảy Thanh) hy sinh, và hai đồng chí khác bị thương.

Có nhiều lần giao liên dẫn khách đụng giặc càn, nhưng nhờ đồng bào che chở bảo vệ nên vẫn đi trót lọt.

Từ giữa năm 1972, tình hình căn cứ Cần Thơ trở nên ác liệt. Địch càn quét hàng ngày, dọn bãi đổ quân bằng bom B52. Địa hình lại mỏng, công sự không vững chắc. Trước tình hình đó Thành ủy chỉ đạo rút toàn bộ căn cứ Đoàn ủy học sinh và sinh viên về lại Campuchia. Tháng 11/1972, cánh Thanh niên liên phường cử đồng chí Mười Tân xuống đón đồng chí Nguyễn Văn Vũ (Chín Trực) đi đường công khai về Campuchia, cả hai bị bắt tại cửa khẩu biên giới nên đường công khai từ đó bị bế tắc.

Đoàn đi đường du kích của Đoàn ủy sinh viên do đồng chí Dương Văn Đầy phụ trách khởi hành từ 25/10/1972 đến 14/12/1972 mới về đến Campuchia. Đồng chí Năm Xuân (Mai Chí Thọ), Thường trực Thành ủy đến thăm hỏi, biết đoàn đi rất gian nan và nhiều lần đụng giặc, qua sông rất nguy hiểm, nhất là qua kinh Vĩnh Tế mà các đồng chí ta mệnh danh là “Kinh Vĩnh Biệt”, nên cử bác sĩ cận vệ - đồng chí Hồ Văn Tăng (Mười Lù) xuống đón đoàn thứ hai là Đoàn ủy học sinh. Đoàn khởi hành từ tháng 3/1973 đến tháng 5/1973 về đến Củ Chi an toàn. Một điều rất kỳ diệu là cả hai đoàn đều đến nơi an toàn trong nhiều tình huống đụng giặc, giặc hàn trên kênh, trên các trục lộ phải băng qua, những cánh đồng bưng bị trực thăng soi… tưởng chừng cái chết đã cận kề, nên khi gặp lại nhau vẫn còn nguyên vẹn, vui mừng khôn xiết.

Mùa khô năm 1972, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ giải phóng nhiều vùng rộng lớn các tỉnh miền Đông, nhổ sạch các căn cứ địch ở Thiện Ngôn, Kà Tum, Bổ Túc, Lộc Ninh, Bù Đốp… Vùng địch tạm chiếm trước đây như Bến Cát, Củ Chi, Trảng Bàng, kết hợp với lực lượng vũ trang và binh vận tại chỗ, nhân dân vùng lên pha các ấp chiến lược bung về làng cũ làm ăn. Vùng giải phóng đã được mở rộng. Trước khí thế tấn công và nổi dậy đồng loạt của quân dân ta, chính quyền Sài Gòn ban hành lệnh thiết quân luật, đóng cửa các trường học, dẹp các tổ chức công khai, khủng bố trắng các phong trào. Thành ủy chủ trương “cán bộ phải rút vào bí mật, chuyển chỗ ở, người về xóm được an toàn thì về, người nào bị lộ với địch thì phải cương quyết đưa vào chiến khu học tập bồi dưỡng, chuẩn bị nhân sự cho giai đoạn mới…”

Thực hiện chỉ đạo của Thành ủy, Thành Đoàn rút hàng loạt cơ sở phong trào công khai về cứ Tim-phơn (Soài Riêng). Tháng 12/1972, Thành ủy và Thành Đoàn tổ chức lớp bồi dưỡng cho các cán bộ này tại căn cứ nói trên gồm các sinh viên Hồ Tâm, Phạm Xuân Hồng (Khoa Học), Nghiêm Văn Thịnh (Khoa Học), Tôn Thất Thành, Trần Luyến (Năm Luận), Nguyễn Xuân Lập,… Một số nhạc sĩ sinh viên như Nguyễn Văn Sanh, Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh, Trần Long Ẩn, Lê Duy Hạnh (Lê Thành Yến). Đồng chí Mai Chí Thọ, Thường trực Thành ủy đến giảng bài. Đến giảng và nói chuyện lớp này còn có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Lư Nhất Vũ, biên đạo múa Thái Ly, nhà thơ Hoài Vũ. Phụ trách lớp có các đồng chí Đỗ Hữu Bút, Ba Chuyên, Lê Quang Lộc (Sáu Quý), Trần Hưng Đoàn (Năm Bằng). Đang học thì Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/01/1973, khóa học tạm ngưng, tức tốc chuyển quân về miền Nam, tại Lò Gò - Xóm Giữa, huyện Tân Biên (Tây Ninh) tiếp tục đến hết khóa. Từ đây, căn cứ của Thành Đoàn đã chấm dứt thời kỳ đóng trên đất bạn Campuchia.

Sau Hiệp định Paris năm 1973

Tháng 4/1973 – 1/1974:

- Lò Gò - Xóm Giữa - Thiện Ngôn (Tây Ninh)

- Củ Chi

- Bến Cát (Bình Dương)

Sau lớp học, đến tháng 4/1973, Thành Đoàn chuyển quân từ Lò Gò - Xóm Giữa về lại quê hương T4, đóng trên địa bàn truyền thống dọc hai bờ sông Sài Gòn Củ Chi - Bến Cát, với một đoàn cán bộ và chiến sĩ hơn 80 người do đồng chí Mười Hòa (Ngô Lộc Sơn) làm trưởng đoàn, cùng với đoàn hậu cần 16 chiếc xe đạp thồ do đồng chí Đỗ Hữu Ứng phụ trách.

Cùng lúc đó, “đoàn quân chiến thắng khá hùng hậu” của Thành Đoàn từ ngục tù Mỹ Ngụy, qua trao trả theo hiệp định Paris, cũng đã trở về gồm các đồng chí như Lê Hồng Tư, Trương Tấn Biên, Hồ Văn Ngoan, Đỗ Hoàng Hải, Nguyễn Kiên Trung, Đỗ Ngọc Trinh, Nguyễn Thị Nghĩa, Võ Ngọc An, Trần Văn Khánh, Nguyễn Thị Cúc, Phan Lệ Hạnh, Ngô Thị Cẩm Tiên, Lê Tú Cẩm, Mười Khanh, Nguyễn Chơn Trung, Nguyễn Văn Phúc, Hà Duy Hưng, Phan Ngọc Diệu, Triệu Công Tinh Trung, Sầm Thanh Liêm, Trần Văn Tạo… Không khí đoàn tụ trong chiến thắng tràn đầy hạnh phúc, trong tình yêu thương đồng chí đồng đội với biết bao tâm sự chia sẻ cho nhau những ngọt bùi cay đắng trong gian khổ hy sinh trên những trận tuyến khác nhau sống mái với quân thù, bao trùm cả căn cứ.

Thành Đoàn sắp xếp lại tổ chức, phân ra các cánh gọi là cánh B như sau:

- B1: Văn phòng Thường trực đóng tại Gót Chàng (An Nhơn Tây - Củ Chi) gần cầu Rạch Sơn. Đồng chí Sáu Khuy làm Chánh Văn phòng

- B2: Ban Tuyên huấn và Trường Đoàn Lý Tự Trọng đóng ở xã An Tây, Bến Cát, sau chuyển lên Thanh An. Đồng chí Sáu Tiếp phụ trách Ban Tuyên huấn, đồng chí Lê Hiếu Đằng (Út Mười Một) và đồng chí Trần Hưng Đoàn (Năm Bằng) phụ trách trường Đoàn.

- B3: Ban Quân sự đóng tại xã An Nhơn Tây (Gót Chàng)

- B4: Tổ chức Thành Đoàn đóng tại Giồng Sỏi xã An Tây - Bến Cát do đồng chí Trần Văn Long (Năm Hiền) phụ trách.

- B9: Thanh niên công nhân đóng ở xã Nhuận Đức, Củ Chi. Đồng chí Đặng Hồng Nhựt (trên tăng cường về) và đồng chí Lê Thanh Hải (Hai Nhựt) phụ trách

- B10: cánh học sinh đóng ở Cây Điệp xã Nhuận Đức, sau trận càn chuyển qua xã An Tây, Giồng Sỏi, do đồng chí Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm) phụ trách.

- B11: cánh Sinh viên đóng ở xã An Điền, gần ngã ba Thùng Thơ, Bến Cát, do đồng chí Dương Văn Đầy(Bảy Không) phụ trách.

Phía Củ Chi, bàn đạp ra các ngã Mỹ Phước, Phú Hòa, Cầu Định, Phú Hòa Đông, cửa khẩu ấp Chiến lược Phước Vĩnh An, Láng Đĩa xã Trung Lập Hạ, Trung Hòa, Trung Lập Thượng, ấp chiến lược Bàu Tre. Phía huyện Bến Cát có cửa khẩu Cầu Ông Cộ, xã Phú An, ngã ba Chú Lường qua ấp chiến lược xã An Điền.

Vừa ký xong hiệp định Paris, lẽ ra không còn tiếng súng, nhưng Mỹ Thiệu đã chà đạp, liên tục tổ chức các trận càn chiếm đất, giành dân. Các căn cứ ở Củ Chi, Bến Cát vẫn bị đánh phá ác liệt. Căn cứ B10 của Đoàn ủy học sinh tại căn cứ Cây Điệp xã Nhuận Đức bị một tiểu đoàn của Sư 25 bộ binh bao vây, nhưng bị lực lượng bảo vệ căn cứ mưu trí, dũng cảm khi chúng đến gần quăng lựu đạn giết và làm bị thương một số tên. Chúng tưởng bị lọt vô khu vực có gài trái nên không dám tiến tới lùng sục.

Ở căn cứ sinh viên An Điền, Bến Cát, đồng chí Nguyễn Bá Tí (Tư Vui) trên đường đi công tác bị địch phục kích hy sinh tại ngã ba Thùng Thơ thuộc xã An Điền.

Tại trường Đoàn, đồng chí Trần Thị Báu và Đoàn Thị Thu Hà (nữ sinh Gia Long) hy sinh lúc tắm hố bom.

Tháng 12/1973, vùng giải phóng phía Tây Nam Sài Gòn đã mở rộng. Thành Đoàn cử một bộ phận cánh Học sinh và cánh Thanh niên công nhân gồm 8 người: Hoàng Đôn Nhật Tân, Lâm Văn Tiếp, chị Tám Thanh, Nguyễn Minh Lân, Tư Trung, Tư Đời, Út Đậm, Thạnh mở mũi đi xây cứ tại xã Mỹ Long, huyện Kiến Văn (nay là Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), dự phòng cho sau này.

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15954 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15954 CLB Truyền thống PHẦN BỐN - Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” 1969 - 1973<br> Từ cuối năm 1968, Mỹ chuyển nhanh sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Quân Mỹ không đóng vai trò chủ yếu “tìm diệt”, nâng khả năng quân ngụy thay thế, từng bước đảm đương cuộc chiến tranh xâm lược tiêu diệt cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục áp đặt chế độ thực dân kiểu mới. Thu, 13 Sep 2012 09:41:55 +0700
PHẦN BỐN - Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trong giai đoạn chống chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” 1969 - 1973

I. Hệ thống căn cứ Thành Đoàn trên địa bàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 1969 - 1970:

Từ cuối năm 1968, Mỹ chuyển nhanh sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Quân Mỹ không đóng vai trò chủ yếu “tìm diệt”, nâng khả năng quân ngụy thay thế, từng bước đảm đương cuộc chiến tranh xâm lược tiêu diệt cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp tục áp đặt chế độ thực dân kiểu mới. Để thực hiện chiến lược “thay màu da trên xác chết” này, Thiệu Kỳ tăng cường đôn quân bắt lính, ra lệnh tổng động viên bổ sung thêm các đơn vị chủ lực mới khẩn trương phát triển bảo an, dân vệ, củng cố chính quyền xã. Mỹ tiến hành chuyển giao kỹ thuật và khí tài, tăng viện trợ các mặt cho ngụy quân ngụy quyền. Sau các đợt phản kích chúng đề ra kế hoạch bình định cấp tốc trong thời gian 3 tháng từ 1/11/1968 đến 31/1/1968, hành quân kết hợp giữa quân Mỹ và quân ngụy liên tục càn quét bắn phá mang tính hủy diệt cao vào vùng giải phóng, tạo điều kiện cho kế hoạch bình định tiếp theo. Cho nên mặc dù Mỹ rút quân từng bước, tính chất ác liệt của chiến tranh xâm lược không giảm. Từ sau 1969 đến 1970 thế trận chiến tranh nhân dân có giảm sút. Đây là thời kỳ hết sức khó khăn đối với vùng căn cứ.

Đầu năm 1969 đến cuối năm 1970:

- Cồn Bình Thạnh (Cao Lãnh - Đồng Tháp)

- Xã Mỹ Long, xã Nhị Quý (Cai Lậy, Mỹ Tho)

- Xã Phước Thạnh (Bến Tre)

Đầu năm 1969, toàn Thành Đoàn đã về đóng căn cứ tại Cồn Bình Thạnh, Cao Lãnh, Đồng Tháp. Thành ủy cũng rời Ba Thu về đóng căn cứ tại vùng Cai Lậy, Mỹ Tho. Như vậy sự chỉ đạo giữa trên dưới vẫn thuận lợi. Cồn Bình Thạnh, người dân còn gọi là Cồn Chà, diện tích không lớn, được bao bọc bởi sông Cái Lớn (sông Tiền) và sông Cái Bé, ghe xuồng, tàu bè đi lại tấp nập nhưng là vùng giải phóng, có đội du kích, có chi bộ. Người dân nơi đây sinh sống bằng lập vườn cây ăn trái, làm ruộng, làm rẫy. Hệ thống sông rạch chằng chịt, địa hình bị cắt khúc giữa các vùng. Việc đi lại chủ yếu bằng xuồng ghe. Ban ngày, xem chừng địch không càn quét bắn phá, dân trở về nhà lo việc sản xuất, chiều tối trở lại vùng tản cư. Tuy nhiên, vẫn còn một số dân khá đông trụ bám. Giặc càn, họ mặc đồ trắng giữ thế hợp pháp di tản bằng xuồng ghe, hoặc chuyển vùng trong xã để tránh càn.

Lực lượng võ trang xã bố phòng chống địch càn khá chặt, gài mìn, cắm chông, cắm bảng tử địa khắp mọi nơi, sử dụng cả ong vò vẽ phục kích chống càn rất lợi hại.

Đầu tiên, Thành Đoàn đóng căn cứ xung quanh ấp Miễu Trắng, Văn phòng thường trực đóng tại nhà đồng chí Năm Tấn - Bí thư chi bộ xã. Lực lượng giao liên đóng tại Cồn Trọi, phân bổ trên những chiếc ghe tam bản có mui, có trang bị máy đuôi tôm, nghi trang người làm ăn trên sông nước như người dân, rất kín đáo và cơ động. Bàn đạp ra rất nhiều ngã như Sa Đéc, Cao Lãnh, Mỹ Thuận, Mỹ Hiệp, Cái Tàu…

Tại căn cứ Cồn Bình Thạnh, Thành Đoàn tổ chức lại Ban Chấp hành mới, Ban Thường vụ có các đồng chí Phan Chánh Tâm (Bí thư), Lê Mỹ Lệ, Phạm Chánh Trực, Trương Mỹ Lệ, Nguyễn Ngọc Phương (bị bắt ở An Hữu được thả), Trang Văn Học. Các Ủy viên gồm Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), Lê Thanh Hải (Hai Nhựt), Nguyễn Thị Nghĩa (Chín Ngân), Nguyễn Thị Chương (Ba Bình), Trần Thị Ngọc (Chín Mai), Trần Thị Sáu (Mười Thoa), Lê Công Giàu (Út Mới), Trầm Khiêm (Hai Lâm)… Trong khoảng 2 tháng, Thành Đoàn đã đưa được hầu hết cơ sở về đây học Nghị quyết và đưa các cán bộ chủ chốt đi học Nghị quyết Bình Giã 3 tại căn cứ của Thành ủy ở Bến Tre.

Do có nhiều ngả ra vào và vận dụng thế hợp pháp của đồng bào, căn cứ cồn Bình Thạnh đã tổ chức được hội nghị, mở nhiều lớp huấn luyện, học tập nghị quyết, điều lắng… rất an toàn.

Khoảng tháng 3/1969, để đáp ứng yêu cầu chỉ đạo phong trào nhanh nhạy, kịp thời, Thường trực và Văn phòng chuyển hẳn vào bên trong, xây dựng các căn cứ lõm xung quanh Sài Gòn để đứng chân chỉ đạo, gồm cứ lõm ở ấp Chợ Đồn, Tân Vạn (Biên Hòa) và Long Hải thuộc Bà Rịa. Cứ lõm là vùng địch còn kiểm soát, nhưng lỏng. Mọi sinh hoạt hoạt động đều nghi trang hợp pháp. Nếu không bị lộ thì đây là những nơi thích hợp cho công việc chỉ đạo, hội họp, công tác văn phòng thư từ liên lạc vì địch ít chú ý, và khá yên tĩnh. Ở hai cứ này, việc đi lại rất cơ động. Đồng chí Trần Thị Sáu (Mười Thoa) - Chánh Văn phòng, đồng chí Nguyễn Thị Nam (Chín Trung) và Nguyễn Văn Mót - Phó văn phòng. Lực lượng giao liên có Hai Danh, Năm Hồng, Út Hằng, Tám Thư, Chín Lan, Mười Tân, bé Tuấn. Ban Thường vụ thường xuyên về họp và làm việc với Phó Bí thư Thành ủy phụ trách - đồng chí Nguyễn Thái Sơn (Bảy Bình). Căn cứ Cồn Bình Thạnh bây giờ trở thành căn cứ huấn luyện, mở các lớp học chính trị, quân sự và điều lắng.

Căn cứ lõm hoạt động được một thời gian thì bị lộ. Các đồng chí Phan Chánh Tâm - bí thư Thành Đoàn, đồng chí Phạm Chánh Trực, đồng chí Lê Mỹ Lệ - phó bí thư, Nguyễn Ngọc Phương - Ủy viên thường vụ, đồng chí Lê Thị Sáu đều bị bắt cùng với một số đồng chí cán bộ và giao liên. Đồng chí Nguyễn Ngọc Phương và đồng chí Trần Thị Sáu bị địch tra tấn dã man, vẫn chiến đấu ngoan cường và hy sinh. Văn phòng chuyển về lại căn cứ Cồn Bình Thạnh. Thường vụ Thành Đoàn được củng cố và bổ sung gồm các đồng chí Trang Văn Học (Năm Tranh) được chỉ định là quyền bí thư Thành Đoàn, Trương Mỹ Lệ - Phó bí thư, các đồng chí Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí), Trầm Khiêm (Tám A), Nguyễn Văn Minh (Ba Dừa) là Ủy viên thường vụ. Thành Đoàn bấy giờ chia ra các bộ phận: Văn phòng thường trực, Tuyên huấn, Học sinh - sinh viên, Ban Quân sự và Liên phường Đoàn. Bộ phận Văn phòng tuyên huấn đóng tại nhà bác Bảy Phần, ấp Bình Mỹ B. Các bộ phận Học sinh, Sinh viên, Tuyên huấn, Liên phường Đoàn và Quân sự đóng ở ấp Miễu Trắng. Các lớp học của các bộ phận sinh viên, quân sự, liên phường và học sinh mở ra liên tục.

Giàn giao liên gồm 4 ghe tam bản gắn máy: ghe bác Bảy Trứ, ghe bác Huyền Phong, ghe chú Hai Long và ghe ông Ba Cường.

Đang lúc vừa sắp xếp xong tổ chức và ổn định căn cứ thì ngày 3/9/1969 được tin Bác Hồ mất. Cả căn cứ phủ một màu tang đau buồn như cắt ruột cắt gan. Bên ngoài mưa dầm dề suốt ngày suốt đêm không ngớt. Đất trời dường như cũng thương tiếc vô vàn người anh hùng dân tộc vĩ đại đã ra đi, một mất mát vô cùng, không gì bù đắp được của cả dân tộc, trong lúc giặc Mỹ xâm lược vẫn còn hoành hành gieo rắc đau thương tang tóc trên đất nước. Theo chỉ đạo của Thành ủy, toàn căn cứ tổ chức lễ truy điệu và để tang Bác trong nước mắt, biến đau thương thành hành động cách mạng, nguyện tiếp bước con đường và lý tưởng cách mạng của Bác cho đến thắng lợi hoàn toàn.

 Lúc này lực lượng căn cứ khá đông, khá nặng. Địch tiến hành bình định trong chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, nên Cồn Bình Thạnh cũng bị địch thường xuyên càn quét, đánh phá, có lúc phải chống càn liên tục cả nửa tháng. Lực lượng bảo vệ do đồng chí Năm Tranh trực tiếp chỉ huy phối hợp với bộ đội, du kích địa phương chống càn, bảo vệ căn cứ an toàn.

Do tình hình trên, tháng 12/1969, Thường vụ Thành Đoàn chủ trương triển khai một số bộ phận xây dựng căn cứ mới. Cánh học sinh về Mỹ Long, Dưỡng Điềm, Nhị Quý ở Cai Lậy, Mỹ Tho do đồng chí Tư Liêm tiền trạm mở mũi. Cánh quân sự và liên phường Đoàn trở về xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, Bến Tre. Cánh sinh viên tuyên huấn vẫn tiếp tục ở cùng với thường trực tại Cồn Bình Thạnh…

Căn cứ học sinh tại xã Mỹ Long, Cai Lậy phát triển thành 3 cụm:

- Cụm xã Mỹ Long: căn cứ chính, đóng trong vườn nhà Bác Năm Gần, cặp bờ sông Mỹ Long có địa hình sậy và chuối rậm rạp, khoảng 2 mẫu (ngang 100m, dài 200m) và liên hoàn với xóm dân. Căn cứ mở bàn đạp ra lộ 4, qua hai xã Dưỡng Điềm, Nhị Quý; được chi bộ chính quyền địa phương và đội võ trang xã tận tình giúp đỡ.

- Cụm xã Long Tiên, Cai Lậy Nam, chủ yếu là căn cứ dự bị phòng tránh địch càn quét.

- Cụm xã Hữu Đạo, huyện Châu Thành, có địa hình cây cao, bụi rậm, chỉ sử dụng hội họp, mở lớp ngắn ngày.

Về ở các cụm căn cứ này có các đồng chí Nguyễn Văn Chí (Bảy Điền) - phụ trách chung, đồng chí Nguyễn Thị Chương (Ba Bình) - Bí thư Đoàn ủy, Nguyễn Thị Nghĩa (Chín Ngân) - Phó bí thư, Triệu Công Tinh Trung - Ủy viên thường vụ, thường trực. Đồng chí Mạnh Chuẩn được Trung ương Đoàn tăng cường chỉ đạo phong trào.

Phụ trách bảo vệ cứ có các đồng chí Đào Văn Đức (Bảy Lâm), Trần Văn Ơn (Năm Nghĩa), Lê Thanh Tạo (Bảy Tạo), Năm Hồng và 5 chiến sĩ miền Bắc tăng cường: Nguyễn Bá Tí (Tư Vui), Nguyễn Hồng Kỳ, Thí, Dung, Tự.

Giao liên có Nguyễn Thị Hạnh (Chín Hồng), Biện Thị Hoa (Sáu Lập), Võ Thị Tư (Út Phương), Sáu Hiếu, Năm Xuân, Thúy. Bàn đạp có nhà Bác Năm Sao, bác Năm Gần ở Mỹ Long là cơ sở nòng cốt, chú Hai Bích, chú Năm Dung, chị Hai Khuynh, anh Tư Sểnh ở xã Nhị Quý. Địa bàn huyện Châu Thành, Cai Lậy, Mỹ Tho nằm trong đối tượng bình định cấp tốc, bình định đặc biệt của Mỹ ngụy, trực tiếp là Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Trung đoàn 10 của sư đoàn 7, chuyên đánh biệt kích. Toàn bộ nằm trong tầm pháo Bình Đức của Tân Tây Lan, 24 khẩu bắn cùng một lúc liên hồi, bất chợt ngày cũng như đêm vào bất cứ nơi nào. Các đồng chí ta gọi là “dàn nhạc Tân Tây Lan”. Địch tận dụng ưu thế không quân mới đưa vào gồm loại trực thăng phản lực tốc độc cao vừa nghe tiếng chỉ vài giây đồng hồ chúng đã tới, dân quen gọi là “cá rô”, “bù nóc”, đi cùng có trực thăng chiến đấu (gọi là cá lẹp). Chúng xà xuống thấp cỡ ngọn cây, dùng cánh quạt vẹt trống mọi địa hình dừa nước, bụi rậm, tốc mái nhà, để phát hiện người, hầm bí mật, công sự… bắn tỉa, quăng lựu đạn phóng hỏa tiễn tiêu diệt bất cứ ai chúng coi là Việt cộng, hoặc xuống đất bắt người chở đi. Đây là thứ vũ khí rất lợi hại, gây thương vong, áp đảo tinh thần, lúc đầu phát huy được tác dụng, nhưng sau lợi dụng nhược điểm dễ bị bắn trúng, nên lực lượng du kích đã bắn rơi được nhiều chiếc, phá được chiến thuật này. Kết hợp, chúng cho máy bay quần đảo, phát loa ra rả kêu gọi chiêu hồi, tác động tâm lý chiến làm nao núng tinh thần. Trong tình hình chiến tranh ác liệt, nhiều đồng chí cán bộ bảo vệ hy sinh, bị thương như đồng chí Năm Hồng, quê xã Tân Trụ, Cần Đước, hy sinh vì pháo chụp tại căn cứ Hữu Đạo; đồng chí Bảy Lâm bị thương bứt một tay do nổ lựu đạn gài, đồng chí Năm Sao bị pháo vỡ đầu gối, cắt một phần chân phải.

Dù phải chịu đựng gian khổ hy sinh trong thời kỳ địch bình định, đánh phá ác liệt, căn cứ cũng đã đảm đương được nhiệm vụ chỉ đạo thông suốt kịp thời phong trào trong nội thành, đưa các cán bộ nòng cốt, các cán bộ trong phong trào công khai ra học tập, làm việc, tổ chức được nhiều lớp học bồi dưỡng, học nghị quyết cho cán bộ, cơ sở cách mạng mới phát triển, đưa được cán bộ bị lộ về điều lắng, đưa được đồng chí Phan Chánh Tâm, Lê Mỹ Lệ, chị Mười Tân vượt ngục thành công trở về vào năm 1970.

Tại xã Phước Thạnh huyện Châu Thành, Bến Tre, Ban Quân sự theo sự chỉ đạo của đồng chí Năm Tranh, trưởng ban đã chuyển về xây dựng căn cứ ở ấp 1 và ấp 2, phát triển qua xã Song Phước bên kia sông Ba Lai. Đồng chí Mười Minh phụ trách. Cánh Thanh niên liên phường Đoàn đóng ở ấp 4, ấp cuối xã.

Bến Tre là trọng điểm của trọng điểm bình định cấp tốc, bình định đặc biệt. B52 và bom pháo tàn phá nặng nề địa hình rừng dừa hai bên lộ 6 của các xã Trường Đa, Phú Túc, Hữu Định, Phước Thạnh, Song Phước. Xã Phước Thạnh từ ấp 1 đến ấp 3 gần như không còn dân. Ấp 4 chỉ có một xóm nhỏ ở bến đò sát kinh An Hóa. Địch càn quét liên tục thọc sâu vào giữa ruột, đóng quân nhiều ngày, chủ yếu là triệt hạ các lực lượng cách mạng, đóng đồn bót, chiếm lại vùng giải phóng.

Ban Quân sự lúc này có các đồng chí Huỳnh Văn Minh (Ba Dừa), Hai Thắng, Ba Đạo, Sáu Đạt, Chí Thành, Năm Hoàng, Thành Công, Trần Danh (chú Hai) …

Khoảng đầu năm 1969, bọn Mỹ đi càn, phát hiện hầm bí mật có đồng chí Lê Thanh Hoàng (Hai Quốc), đồng chí Vũ Oai, cơ sở binh vận là thiếu úy dù. Đồng chí Hai Quốc dùng súng ngắn K54 chống trả quyết liệt, diệt được 2 tên. Hai đồng chí đã hy sinh oanh liệt tại xã Song Phước. Tại Phước Thạnh, một lần địch càn vào cứ, phát hiện hầm bí mật. Không ai chịu đầu hàng, chúng quăng lựu đạn xuống hầm, đồng chí Ba Đạo hy sinh, đồng chí Lê Tấn Quốc bất tỉnh, mù hai mắt bị bắt đem đi. Cánh quân sự cũng trong năm 1969, đồng chí Út Minh hy sinh tại Song Phước ngay trong ngày đồng chí vừa tuyên hôn. Nữ giao liên Bảy Quyết, nữ chiến sĩ Cúc và đồng chí Năm Hoàng cũng hy sinh tại Phước Thạnh.

Cánh Thanh niên Liên phường Đoàn đóng ở vùng Miễu Trường Gà ấp 4, tại nhà các gia đình cách mạng như chị Tư Chơi, chú thím Hai Hải, chị Sáu Mành, dì Hai, dì tư Nhung. Căn cứ có các đồng chí Đỗ Tiến Lực (Chín Lực), Đào Văn Thành (Tám Sơn), Dương Thị Trước (Bảy Huyền), những người đầu tiên về đây xây cứ. Đồng chí Bảy Huyền bị pháo bắn hy sinh ngay từ đầu. Sau này tăng cường thêm các đồng chí Nguyễn Kiến Quốc (Năm Hùng), Hồ Văn Thông (Ba Luân), Nguyễn Vân Vũ (Chín Trực), Lê Doãn Sĩ (Tư Thanh). Trước Tết 1970, có các đồng chí phụ trách trong Ban Chấp hành Đoàn ủy Liên phường về làm việc và ăn tết như đồng chí Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm), Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), Lê Thanh Hải (Hai Nhựt). Giao liên có các đồng chí Nguyễn Thị Hiệp (Ba Trọng), Chín Thu, Chín Hải, bé Nhân, bé Quyết, bé Hòa.

Tháng 5/1970, sau Tết, đồng chí Tư Liêm, Bảy Hà vào nội thành công tác. Đồng chí Bảy Hà bị bắt tại Mỹ Thuận do chiêu hồi nhìn mặt. Đồng chí Tư Liêm bị bệnh, phải điều trị mất mấy tháng mới bình phục.

Ngày 22/3/1970, trong một chuyến công tác đưa một cán bộ giao liên và bé Hòa đi ra cửa khẩu Vàm Cái Trăng, bị địch phục kích ở ấp 2. Đồng chí Tám Sơn đi đầu bị địch bắn giữa ngực hy sinh, chúng tiếp tục bắn và đâm nát thân thể đồng chí. Giao liên bị bắt, bé Hòa 17 tuổi bị chúng hiếp cho đến chết và quăng mất xác, không tìm được (theo người dân sau này kể lại). Địch phục kích giữ xác đồng chí Tám Sơn. Các đồng chí Chín Lực, Ba Luân, Hai Nhựt, Chín Trực, Tư Thanh, Bảy Nam phối hợp với cánh quân sự đồng chí Mười Minh và cánh giao liên tỉnh đồng chí Lê Minh hạ quyết tâm lấy xác đồng chí Tám Sơn. . Cuộc lấy xác thật dũng cảm và mưu trí, cuối cùng đã đưa được xác đồng chí Tám Sơn về, trong tầm pháo địch bắn truy đuổi. Mãi đến chiều hôm sau, địch rút sau một trận càn vào xã, mới tổ chức chôn cất đồng chí được. Đồng chí Tám Sơn tên thật là Đào Văn Thành, em ruột đồng chí Đào Văn Đức (Bảy Lâm), hy sinh lúc 23 tuổi, vừa được kết nạp Đảng vài tháng (sau này đồng chí Bảy Lâm cũng hy sinh tại quê nhà ở Tân Phú Trung, Củ Chi năm 1974).

Giao liên bị bắt đã đầu hàng và phản bội. Ngoài việc đánh phá cơ sở cách mạng bên trong, nhiều người bị bắt; cô ta còn chỉ cho giặc căn cứ Thành Đoàn và hệ thống giao liên ở Cồn Bình Thạnh, dẫn địch về đánh căn cứ Phước Thạnh ở Bến Tre. Tại căn cứ Bến Tre, địch chia làm 2 mũi đánh thành gọng kềm, kẹp căn cứ liên phường Đoàn vào giữa. Trong trận tao ngộ với địch, bé Nhân bị trúng đạn hy sinh, đồng chí Chín Lực bị thương ở cánh tay núp vào một công sự, địch sục sạo tìm kiếm nhiều lần, đồng chí đã bình tĩnh, mưu trí và tìm cách thoát khỏi sự truy sát của địch trong gang tấc. Các đồng chí khác cũng thoát khỏi vòng vây của địch. Trong một trận khác, đồng chí Ba Luân hy sinh trong lúc đi gài trái để ngăn giặc càn, không may trái nổ.

Căn cứ Phước Thạnh đã tồn tại trong bom đạn và sự càn quét rất ác liệt của Mỹ ngụy, chịu tổn thất, hy sinh khá lớn, tại đây ta đã hy sinh 5 đồng chí, nhưng vẫn kiên cường bám trụ, thậm chí chỉ còn lại một người vẫn bám trụ cho đến khi có lệnh rút đi.

Sau khi giao liên ở Bến Tre đầu hàng phản bội, tháng 6/1970 địch tập trung đánh phá căn cứ Thành Đoàn ở Cồn Bình Thạnh. Sau nhiều ngày bao vây các cửa sông Cái Lớn, Cái Bé, địch bắt 3 ghe tam bản giao liên gồm Ba Cường, Ba Huyền Phong, Ba Bảy Trứ, dì Bảy Như, Ba Thắm, Ba Tiên. Chỉ có ghe chú Hai Long chạy thoát. Trong vụ này, đồng chí Nguyễn Thị Nghĩa (Chín Ngân) bị bắt.

Người phụ trách giao liên đầu hàng, chỉ ra hệ thống giao liên. Địch đã biết rất rõ về tổ chức căn cứ của Thành Đoàn ở Cồn Bình Thạnh và cả đường dây liên lạc giữa Thành Đoàn và Thành ủy. Chúng tập trung đánh điểm, huy động tàu chiến có bọn Tổng Nha, Công an, Cảnh sát Sài Gòn, cho bộ binh đổ bộ và máy bay trực thăng đánh vào các điểm của căn cứ Thành Đoàn. Chúng đánh cả ban ngày lẫn ban đêm. Tuy nhiên, do ta đề phòng cảnh giác, phối hợp cùng địa phương chống càn, nên không bị tổn thất.

Trước tình hình đồng bằng sông Cửu Long địch bình định đánh phá ác liệt, lực lượng căn cứ bị hy sinh tổn thất và bị động liên tục không còn đảm bảo nhiệm vụ phục vụ cho phong trào. Thành ủy chủ trương chuyển toàn bộ các căn cứ về bên kia biên giới Campuchia. Theo chỉ đạo của Thành ủy, tháng 9/1970, đồng chí Tư Liêm được cử đi tiền trạm mở mũi để chuyển hướng căn cứ về sông Sở Thượng, giáp biên giới Campuchia. Lực lượng cùng đi có các đồng chí Ngô Lộc Sơn (Mười Hòa) phụ trách an ninh, đồng chí Sáu Hoàng, công tác quân sự, đồng chí Trần Hưng Đoàn (Năm Bằng) và Hoàng Phủ Ngọc Phan (Năm Sơn) tuyên huấn, đồng chí Năm Sao xây dựng căn cứ cùng một số đồng chí bảo vệ.

Các đồng chí Phan Chánh Tâm, Lê Mỹ Lệ, Phạm Chánh Trực đã vượt ngục trở về. Thành Đoàn có sự phân công sắp xếp lại.

Trong lúc hội nghị thì địch càn vào khu vực căn cứ. Sau trận càn, thường vụ quyết định chuyển bộ máy văn phòng về sông Sở Thượng. Đồng thời, cũng chỉ đạo cho các căn cứ quân sự, liên phường Đoàn ở xã Phước Thạnh, Bến Tre, căn cứ học sinh ở xã Mỹ Long, Dưỡng Điềm, Nhị Quý, huyện Cai Lậy, Mỹ Tho, chuyển toàn bộ về sông Sở Thượng, biên giới Campuchia.

Lúc này, Thường vụ chỉ còn có đồng chí Trang Văn Học (Năm Tranh) ở lại Cồn Bình Thạnh phụ trách căn cứ và phụ trách chỉ đạo Ban Quân sự. Cùng ở lại còn có các đồng chí Nguyễn Thị Nam (Chín Trung) - văn phòng, đồng chí Tám Vân - y tế, chị nuôi, các đồng chí bảo vệ gồm Mười Công, Chín Nhịn, Ba Dũng, Tư Quán. Giao liên có vợ đồng chí Sáu Hải, đồng chí Ba Minh, xây dựng gia đình đồng chí Tư Quán ở Cồn Trọi làm điểm nhắn tin, liên lạc.

Theo chỉ đạo của Thành ủy và Thành Đoàn, sau khi các đồng chí cuối cùng của các căn cứ Mỹ Tho, Bến Tre về hết sông Sở Thượng thì các cán bộ chiến sĩ ở Cồn Bình Thạnh cũng sẽ rút về đó luôn. Đường về sông Sở Thượng của các căn cứ trên hết sức cam go, có thể bị tổn thất lớn vì Mỹ ngụy đánh hơi biết hướng chuyển cứ của Thành ủy và các cánh. Chúng tập trung hàn các chốt, điểm hiểm yếu mà các đoàn nhất thiết phải vượt qua như vượt sông Cửu Long, vượt quốc lộ 4, vượt đồng bưng giáp biên giới… Gian nan nhất là đoàn của căn cứ Bến Tre, phải mất trên 70 ngày đêm mới về đến Sở Thượng. Đoàn căn cứ Cồn Bình Thạnh cũng hết sức gay go. Điều hạnh phúc, sung sướng nhất là các đoàn về đến nơi an toàn, mặc dù gặp không biết bao nhiêu lần nguy hiểm tưởng chừng không bảo vệ nổi.

Trong khi các đồng chí còn chờ các đoàn Bến Tre, Mỹ Tho chưa rút hết, ngày 14/12/1970, địch tập kích vào văn phòng, chỗ đồng chí Năm Tranh làm việc tại căn cứ Cồn Bình Thạnh, bằng pháo và trực thăng bắn hỏa tiển ngay hầm trú ẩn của đồng chí. Đêm ấy, đồng chí Sáu Hòa, bộ phận quân sự về làm việc với đồng chí Năm Tranh và về ngay trong đêm. Khoảng 6 giờ sáng ngày 15/12/1970, máy bay địch quần đảo bắn trái điểm tại văn phòng và bỏ bom. Đồng chí Năm Tranh hy sinh. Sau khi chôn cất và làm lễ truy điệu, toàn bộ các đồng chí còn lại được lệnh lần lượt rút về sông Sở Thượng, chỉ để lại đồng chí Tư Quán là đầu mối cuối cùng liên lạc với căn cứ Mỹ Tho, Bến Tre và Cồn Cò ở Sở Thượng. Công việc của căn cứ Cồn Bình Thạnh xong, chưa kịp rút đồng chí Tư Quán đi thì địch càn. Đồng chí Tư Quán phối hợp cùng địa phương chiến đấu, chẳng may bị cướp cò súng, đồng chí hy sinh. Từ đây căn cứ Cồn Bình Thạnh chấm dứt nhiệm vụ cho đến ngày giải phóng.

Chỉ 2 năm 1969 - 1970, có thể nói đó là thời kỳ mà các căn cứ của Thành Đoàn đã trụ bám trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long, là một trận tuyến, một chiến trường hết sức gay go quyết liệt, chịu bao hy sinh tổn thất và đã vượt qua mọi thử thách, hoàn thành xuất sắc vai trò hậu phương đối với phong trào đô thị đang dâng cao.
 
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15947 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15947 CLB Truyền thống II. Căn cứ Thành Đoàn trước và sau cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1967 - 1968: Năm 1967, sau trận càn Junction-City không đạt mục tiêu tham vọng nào nhưng người và vũ khí phương tiện bị tổn thất rất lớn, cuộc phản công chiến lược mùa khô lần 2 của Mỹ - ngụy bị thất bại nặng nề. Wed, 12 Sep 2012 10:50:40 +0700
PHẦN BA (TIẾP THEO): Căn cứ Thành Đoàn trước và sau cuộc tổng tiến công
nổi dậy Xuân Mậu Thân 1967 - 1968:

Năm 1967, sau trận càn Junction-City không đạt mục tiêu tham vọng nào nhưng người và vũ khí phương tiện bị tổn thất rất lớn, cuộc phản công chiến lược mùa khô lần 2 của Mỹ - ngụy bị thất bại nặng nề. Chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ bị “thất bại một bước quan trọng”. Mỹ lâm vào thế bế tắc về chiến lược giữa lúc quân số Mỹ, “đồng minh” và Ngụy Sài Gòn đạt đến đỉnh cao nhất của cuộc chiến tranh: 1 triệu 450 ngàn quân với mức độ chiến tranh vô cùng khốc liệt mang tính hủy diệt. Vùng giải phóng được mở rộng áp sát Sài Gòn và các thành phố khác.

Bộ Chính trị họp tháng 4/1967 nhận rõ thời cơ chiến lược xuất hiện, đến tháng 6 thông qua quyết tâm chiến lược “giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn nhất”, chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam tiến công mạnh về quân sự, chính trị, tạo điều kiện tiến lên Tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Ngày 25/10/1967, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên toàn chiến trường Nam bộ và cực Nam Trung bộ, mục tiêu chính là Sài Gòn và các thành thị phía Nam (các mục tiêu thành thị khác như Huế, Đà Nẵng… do Trung ương phụ trách), với mật danh là “Nghị quyết Quang Trung”.

Từ căn cứ Bến Tre, đồng chí Hồ Hảo Hớn (Hai Nghị) chỉ đạo các đồng chí còn phụ trách vùng căn cứ Củ Chi, Bến Cát khẩn trương tổ chức lại bàn đạp, chỗ tiếp đón cán bộ lãnh đạo, cốt cán các cánh của Khu Đoàn về học Nghị quyết mới do Trung ương Cục trực tiếp triển khai. Đường vào từ bàn đạp tại Sa Nhỏ, Ràng xã Trung Lập Thượng đến căn cứ tập kết của Khu ủy ở Cần Nôm (Thanh An) phải vượt qua vùng trắng địa hình trống trải vượt sông Sài Gòn trong khoảng 2 giờ xe đạp, được coi là vùng oanh kích tự do. Máy bay phản lực, trực thăng, trinh sát quần đảo liên tục bắn phá những nơi nghi có dấu vết con người. Các đồng chí Bảy Phòng, Năm Phú, Sáu Niên, Mười Nam trụ lại trên mảnh đất đầy nguy hiểm chết chóc này, hoàn thành nhiệm vụ đưa được 20 đồng chí đến nơi tập kết. Tuy nhiên vẫn còn một số đông đồng chí bị kẹt lại do địch càn và chốt chặn các cửa khẩu ra vào. Đoàn cán bộ về R, mỗi người một xe đạp với hành trang gọn nhẹ vượt sông vượt suối mùa nước đổ, qua các địa danh Dương Minh Châu, Kà Tum, Thiện Ngôn, để đến căn cứ Trung ương Cục bên ngọn Vàm Cỏ Đông sát biên giới Campuchia. Đoàn ngày đi đêm nghỉ, dọc đường tận mắt chứng kiến cảnh chuẩn bị cho phía trước, người đi lại tấp nập, khẩn trương, có hôm gặp đơn vị quân giải phóng hành quân phải nhường đường cả giờ mới dứt đuôi. Xác xe tăng pháo, máy bay Mỹ trong trận càn Junction-City còn nằm ngổn ngang, đồng thời trên đầu máy bay địch còn quần đảo dập dìu theo dọc đường đi. Có đoạn sương mù trắng xóa của chất độc hóa học vẫn còn vương vãi cả một vùng. Lớp học sắp khai mạc thì đồng chí Hồ Hảo Hớn - Bí thư Khu Đoàn và các đồng chí Ba Triết, Chín Kế, Năm Nam gấp rút về lại nội thành để chỉ đạo phong trào đang sục sôi. Qua một tháng học tập Nghị quyết Quang Trung do các đồng chí Trung ương Cục và Khu ủy triển khai, và được trên chăm sóc bồi dưỡng tối đa cả về vật chất lẫn tinh thần, lần đầu tiên chưa từng thấy trong đời làm cách mạng, ai nấy đều nức lòng, phấn khởi sẵn sàng lao vào chiến đấu cho “một cuộc đổi đời”, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lớp học kết thúc, một số cán bộ của Khu Đoàn đi đường công khai ra thị xã Tây Ninh, Gò Dầu về thành phố, số còn lại đi đường du kích theo hành lang biên giới qua Kiến Tường, Long An, Đồng Tháp Mười, vượt sông Cửu Long về Bến Tre. Trên đường về, từng đoàn dân công, Thanh niên xung phong, bộ đội tấp nập khẩn trương chuẩn bị cho đại cuộc. Đồng chí Lê Bách người miền Bắc bổ sung vào Khu Đoàn, cảm hứng sáng tác hai bài hát “Vui sao con đường đi đánh Mỹ”, “Thuyền em lướt tới” giữa rừng tràm Tháp Mười. Bài hát đã được Đài Phát thanh giải phóng phổ biến đi khắp nơi.
Đầu tháng 11/1967, giữa không khí tưng bừng chuẩn bị cho ngày giải phóng thì một tin đau lòng, một cái tang chung trùm khắp Khu Đoàn. Đồng chí Hồ Hảo Hớn bị địch bắt do một tên phản bội chỉ điểm, đã quyết tử hy sinh sau một đêm địch tra tấn hết sức dã man, mang theo bí mật của Nghị quyết Quang Trung và bí mật tất cả tổ chức cách mạng trong nội thành do đồng chí phụ trách. Đây là một tổn thất hết sức lớn của Khu Đoàn và phong trào Thanh niên Học Sinh Sinh Viên đô thị, nhưng ai nấy đều rất tự hào về người Bí thư Đoàn của toàn thành phố, học tập tấm gương anh hùng của đồng chí quyết tâm chiến đấu không nề gian khổ, hy sinh cho Tổ quốc, cho lý tưởng cách mạng.

Khu Sài Gòn - Gia Định mở rộng địa bàn ra các tỉnh phụ cận, lập Khu ủy mới do đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư Trung ưng Cục kiêm nhiệm làm Bí thư Khu ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt, là Phó Bí thư, chia ra làm 6 phân khu và tổ chức hai Bộ chỉ huy tiền phương phục vụ cho chiến dịch Mậu Thân. Phân khu 6 là nội thành (bao gồm cả Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định) chính là Thành ủy Sài Gòn, do đồng chí Trần Bạch Đằng (Tư Ánh) làm bí thư.

Với tinh thần cách mạng tiến công vừa chạy vừa sắp hàng, tại căn cứ rừng dừa xã Phước Thạnh, Bến Tre, Khu Đoàn triệu tập toàn bộ cán bộ chủ chốt các cánh về triển khai Nghị quyết Quang Trung… Từ đây, Khu Đoàn Sài Gòn - Gia Định được đổi tên là Thành Đoàn Sài Gòn. Đồng chí Phan Chánh Tâm (Ba Vạn) được Thành ủy quyết định làm bí thư thay đồng chí Hồ Hảo Hớn. Thành Đoàn được tổ chức lại làm 3 lực lượng, không còn các cánh như trước.

Lực lượng 1 là lực lượng biệt động võ trang được phân công làm thê đội 2 đánh chiếm mục tiêu Dinh Độc Lập, Tòa đại sứ Mỹ, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bưu Điện, Đài Phát Thanh… do đồng chí Lê Tấn Quốc (Tám Thành), Phó Bí thư Thành Đoàn và đồng chí Trang Văn Học (Năm Tranh) phụ trách.

Lực lượng 2 chính trị vũ trang làm nhiệm vụ vừa diệt ác phá kềm vừa phát động quần chúng nổi dậy làm chủ xóm, cướp chính quyền tại các quận 1, 2, 3 do đồng chí Phạm Chánh Trực (Năm Nghị) phụ trách.

Lực lượng 3 là lực lượng chính trị công khai vận động và tổ chức quần chúng xuống đường khởi nghĩa xây dựng các đoàn thể Thanh niên ngay trong những ngày công kích do đồng chí Phan Chánh Tâm, Phan Văn Dinh (Chín Kế) phụ trách.

Cán bộ, chiến sĩ Thành Đoàn với khí thế ra quân hồ hởi chuẩn bị làm một cuộc “đổi đời”, khẩn trương tập luyện quân sự, lên sa bàn các mục tiêu, học chiến thuật tác chiến trong thành phố. Các bộ phận hậu cần rộn rịp vận chuyển vũ khí áp sáng vùng ven Bình Chánh, Phú Lâm, Nhà Bè hoặc đưa vào cất giữ trong các kho ở nội thành. Những đồng chí điều lắng và cán bộ chiến sĩ làm công tác ở căn cứ giờ được tạo điều kiện đưa về nội thành hay áp sát nội thành chờ lệnh tiến quân. Đêm liên hoan chia tay ở rừng dừa hẹn ngày chiến thắng Sài Gòn trở thành đêm không ngủ với các bài hát, bài thơ tưng bừng khí thế. Thành Đoàn giờ đây tạm biệt các vùng căn cứ, lao vào trận địa mới trong thành phố Sài Gòn. Mang tinh thần Nghị quyết Quang Trung, Thành Đoàn chuyển khí thế chuẩn bị võ trang khởi nghĩa từ nơi căn cứ rừng dừa lịch sử ở Bến Tre vào giữa sào huyệt của quân thù, với những chuyến áp tải vũ khí, phương tiện từ các căn cứ của Thành Đoàn vào nội thành, đầy mưu trí và dũng cảm, vượt qua các chốt chặn kiểm soát hùng hậu và nghiêm ngặt của địch; với việc khẩn trương xây dựng nhiều lõm cứ điểm bí bí mật làm kho vũ khí và bám trụ trên các địa bàn đã được phân công. Đặc biệt nhất là tổ chức một cuộc tập hợp lực lượng quần chúng 12. 000 học sinh sinh viên đêm 21/1/1968 (25 Tết âm lịch) tại sân Học viện Quốc gia Hành chánh. Dưới hình thức là đêm văn nghệ mừng Xuân Mậu Thân, nhưng nội dung chủ đề của đêm đó là mừng Tết Quang Trung tiến quân vào giải phóng kinh thành Thăng Long. Rừng cờ đỏ có hình tròn vàng ở giữa (cờ của Quang Trung) bay phấp phới với hàng hàng biểu ngữ bao khắp sân trường của Học viện. Một sân khấu hoành tráng rộng chưa từng có với hình ảnh nền là quân của Quang Trung Nguyễn Huệ với rừng người, rừng cờ, hàng hàng lớp lớp tiến quân thần tốc vào giải phóng Thăng Long. Đêm văn nghệ tưng bừng khí thế quật khởi với những tiết mục hầu hết do học sinh sinh viên sáng tác như “Tiếng trống hào hùng” (Hội nghị Diên Hồng), “Rạch Gầm dậy sóng”, “Ải Chi Lăng”, “Kéo gỗ rừng khuya”, “Hát cho dân tôi nghe”, “Người đợi người”,… Đêm văn nghệ đã thành công vượt yêu cầu, thực sự là một cuộc tổng diễn tập tưng bừng khí thế cho một cuộc nổi dậy đổi đời. Đây là một sáng tạo tuyệt vời của trí tuệ tuổi trẻ Sài Gòn dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy và Thành Đoàn trước giờ xuất kích.

Cuộc Tổng tiến công nổi dậy xuân Mậu Thân vào Sài Gòn và các thành thị miền Nam đã phá tan chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, làm cho phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ và thế giới bùng phát dữ dội, trở thành sức ép mạnh trên chính trường nước Mỹ. Ý chí xâm lược Việt Nam của Mỹ bị lung lay, nội bộ mâu thuẫn và bị phân hóa cao. Mỹ phải ngồi lại đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, thay đổi chiến lược tìm thế rút quân. Trong điều kiện tương quan ta - địch chênh lệch tỷ lệ 1/5 (chỉ riêng về quân số) thì đây là một thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa chiến lược. Phía cách mạng cũng chịu nhiều tổn thất lớn, chủ yếu do có nhiều thiếu sót và sai lầm chủ quan trong phối hợp chiến đấu, trong chỉ đạo…

Tuy nhiên, ngay giữa sào huyệt của kẻ thù, trong cuộc chiến đấu không cân sức, quân và dân ta đã thể hiện khí phách anh hùng, dũng cảm hy sinh rất tuyệt vời, chiến đấu đến viên đạn và hơi thở cuối cùng. Thành Đoàn đã góp sức mình vào thắng lợi chung của cách mạng, bên cạnh đó cũng chịu nhiều tổn thất cục bộ, cán bộ nòng cốt ở các phường, trường học, xí nghiệp,… bị lộ, bị bắt. Nhiều đồng chí trong lực lượng võ trang đã hy sinh trên đường phố Bàn Cờ, Quận 4, đường Minh Phụng, khu Chợ Thiếc, Khu Việt Nam Quốc Tự, Phú Thọ Hòa, hoặc dọc đường dẫn quân vào thành phố hoặc đánh địch phản kích ở vùng ven Phú Lâm, Bình Chánh, Phước Vân, Cần Đước, Long An. Nhiều tấm gương hy sinh oanh liệt như Lê Thị Bạch Cát (Sáu Xuân), Nguyễn Sơn Hà (Bảy Thép), Lê Văn Nghề (Năm Lăng), Tư Nghĩa… quyết không đầu hàng giặc, dù đã bị thương nặng nhưng vẫn ngoan cường chiến đấu hy sinh anh dũng.

Chuẩn bị vào đợt Mậu Thân, một bộ phận của lực lượng 2 (võ trang tuyên truyền) gồm các đồng chí Lê Thanh Văn (Sáu Văn), Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm), Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), Nguyễn Thị Nghĩa (Chín Ngân), Trần Thị Ngọc (Chín Mai), Nguyễn Thị Chương (Ba Bình) xây dựng cứ lõm ở xã Vĩnh Phú huyện Lái Thiêu, Bình Dương, dùng nhà ông Lê Văn Út, ông cậu và nhiều nhà bà con của đồng chí Bảy Hà ở sát quốc lộ 13 làm nơi sinh hoạt hội họp. Sau ta phát triển thêm hàng chục gia đình ở sâu bên trong làm nơi nuôi chứa, tạm lắng, là vùng ta làm chủ có du kích mật. Cảnh sát mật vụ lính địa phương ít dám thọc vào, trừ khi địch tổ chức càn quét có quy mô. Thường vụ Thành Đoàn cũng thường về họp hoặc đưa khách về làm việc trong suốt các đợt của chiến dịch Mậu Thân. Mặc dù có một số đồng chí bị bắt biết căn cứ này, nhưng vẫn giữ bí mật căn cứ, một số đồng chí Thành Đoàn vẫn bám trụ cho đến ngày giải phóng.

Một lần, sau đợt 1 một tháng, thông qua quan hệ quần chúng tốt báo, đồng chí Bảy Hà bắt được liên lạc Ban Chỉ huy của một tiểu đoàn chủ lực trong đợt 1 tiến quân vào đến Gò Vấp bị tiêu hao nặng, không còn liên lạc được các đơn vị. Bốn bề địch bao vây, truy lùng rất gắt gao. Các đồng chí trốn trên trần nhà của một gia đình mà không biết có con rể là sĩ quan cảnh sát dã chiến rất ác ôn, chỉ huy các cuộc truy lùng quân cách mạng. Rất may, gia đình hết lòng che chở nuôi dưỡng bảo bọc các đồng chí hàng tháng trời và tìm cách bắt liên lạc với cách mạng. Các đồng chí Bảy Hà, Chín Ngân, Chín Mai, Ba Bình đã mưu trí cải trang chocác đồng chí ăn mặc bảnh bao, nghi trang thành những cặp tình nhân đèo nhau trên xe honda, lần lượt chuyển được toàn bộ Ban chỉ huy tiểu đoàn về đến căn cứ Lái Thiêu an toàn… Từ đây các đồng chí về lại chiến khu.

Tháng 3/1968 - 8/1968:

- Về lại xã Phước Vân (Long An).

Tại Phước Vân trước khi vào chiến dịch Mậu Thân đêm 29 Tết, đã diễn ra một cuộc ra quân đầy khí thế tiến quân vào Sài Gòn của các cánh, các đơn vị của Thành ủy, trong đó có một bộ phận võ trang của Thành Đoàn. Sau đợt một, cánh Thanh niên Công Nhân Lao Động và đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi lại rút về căn cứ Phước Vân củng cố lực lượng chuẩn bị cho đợt 2. Tháng 3/1968, bộ phận Thường trực của Thành Đoàn cũng về đứng chân tại căn cứ này để chỉ đạo các lực lượng chuẩn bị cho đợt 2, đồng thời chuyển toàn bộ lực lượng còn lại từ căn cứ Bến Tre cũng về đây. Ròng rã 46 ngày hành quân, vượt sông Cửu Long và lộ 4 hết sức gay go, đoàn cũng về đến nơi an toàn. Tháng 4/1968, tại căn cứ Phước Vân, Thành ủy chỉ đạo Thành Đoàn chủ trương tập trung các cán bộ về thành lập các liên phường do liên phường ủy lãnh đạo. Liên phường 1 phụ trách khu vực Gia Định do đồng chí Trần Hữu Phước (Tám Võ) làm bí thư, liên phường 3 khu vực Hòa Hưng, Lê Văn Duyệt (Cách Mạng Tháng Tám ngày nay), Nguyễn Thông do đồng chí Phạm Chánh Trực làm bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Bình (Năm Trọng) là Phó Bí thư. Sau Liên phường 3 chia thành liên phường 3A, đồng chí Ba Xích thay đồng chí Năm Trọng bị địch bắt; liên phường 3B phụ trách khu vực Trương Minh Giảng nối dài do đồng chí Phan Văn Dinh (Chín Kế) làm bí thư, đồng chí Võ Văn Thôn (Mười Thôn) là ủy viên; liên phường 6 khu vực Quận 11, Quận 6 do đồng chí Sáu Vĩnh làm bí thư. Cả 4 liên phường đều phát huy tác dụng trong đợt 2.

Chuẩn bị cho đợt 2, Thành Đoàn còn cử trên 50 cán bộ, chiến sĩ ưu tú, thông thạo đường phố Sài Gòn, tuổi 18 đôi mươi và nhiều em còn tuổi thiếu nhi như bé Quyết, bé Tiến, bé Đào rút từ các đơn vị quân sự, chính trị của Thành Đoàn làm nhiệm vụ dẫn bộ đội vào thành phố. Đồng chí Tư Nghĩa dẫn đầu (cấp đại đội trưởng). Vào đợt, một số cán bộ chiến sĩ đã chiến đấu hy sinh dũng cảm. Ngày 4/5/1968, Phạm Thị Thu Vân (Bảy Thủy), Võ Thị Bua (Chín Phương) và bé Khoan Kiến Quốc (bé Đào) làm nhiệm vụ dẫn một tiểu đoàn chủ lực vào thành phố. Đến xã Mỹ Hạnh (Đức Hòa), giặc Mỹ đổ quân, càn quét đánh thẳng vào đội hình của đơn vị. Các đồng chí chỉ huy bảo các em hợp pháp theo đồng bào di tản, nhưng các em dứt khoát ở lại với tiểu đoàn theo nhiệm vụ được giao. Cả ba nấp vào hầm, bị giặc phát hiện. Chúng kêu gọi đầu hàng nhiều lần. Theo lời bé Đào sống sót kể lại, hai chị hội ý rất nhanh, chỉ trong tích tắc, dứt khoát không đầu hàng, thà hy sinh. Giặc quăng lựu đạn, lập tức Thu Vân dùng thân mình phủ lấy người bé, tiếp theo là Chín Phương. Cả hai đồng chí Thu Vân và Chín Phương hy sinh, bé Đào bị thương vì hai chân còn ló ra ngoài, giặc bắt đem đi, một thời gian sau bé Đào được thả ra, tìm về đơn vị. Thu Vân là con ruột của đôi vợ chồng đều là cán bộ cách mạng - đồng chí Phạm Quang Hồng. Lúc hai vợ chồng ở tù, Thu Vân được mẹ Quế gởi cho đồng chí Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm) cùng ở tù chung nhưng sắp được thả nhờ đồng chí Lệ dìu dắt nối chí cha mẹ. Được đồng chí Lệ giác ngộ cách mạng, Thu Vân hoạt động phong trào học sinh của trường mình là trường Lê Văn Duyệt, trở thành bí thư Đoàn trường. Bị lộ, Thu Vân thoát ly ra vùng giải phóng, học tập chính trị, quân sự, trở thành chiến sĩ dũng cảm, năng động và cũng là tay súng giỏi. Lúc hy sinh, Thu Vân ở tuổi 19. Còn Chín Phương quê ở Củ Chi (con của đồng chí Hai Thu, cán bộ giao liên Thành Đoàn, nay là Mẹ Việt Nam Anh Hùng), thoát ly làm cách mạng theo Thành Đoàn, làm công tác giao liên, lúc hy sinh cũng ở độ tuổi xấp xỉ Thu Vân.

 Cũng vào tháng 4/1968, tại căn cứ Phước Vân, mọi người vừa xong cơm sáng thì có báo động giặc càn. Một số chém vè, các đồng chí khác, nhất là nữ thì xuống hầm bí mật. Vì có kẻ chỉ điểm - đây là trận càn đánh điểm - bọn Mỹ bắn phá dữ dội, xông vào căn cứ xục xạo, phát hiện miệng hầm bí mật có các đồng chí Lê Văn Quới (Ba Thành), cán bộ, Hồng Liên và Sáu Lan - giao liên. Chúng gọi hàng nhưng được đáp lại là tiếng hô dõng dạc và tràng AK quyết liệt của đồng chí Ba Thành. Giặc ném lựu đạn vào hầm. Đồng chí Ba Thành, Hồng Liên hy sinh, Sáu Lan bị thương và bị chúng bắt. Do khéo khai là đi thăm chồng, gặp càn theo xuống hầm núp, địch không phát hiện gì hơn. Sau một năm bị giam giữ, Sáu Lan được thả. Ba Thành quê ở Biên Hòa, còn Hồng Liên quê ở Tam Phước, Bến Tre, lúc hy sinh mới vừa 17 tuổi.

Căn cứ Phước Vân tồn tại đến cuối năm 1968, căn cứ Long Khê đến năm 1967, tổ chức được nhiều lớp học chính trị, huấn luyện quân sự, chỉ đạo phong trào, đảm bảo đánh được 65 trận lớn nhỏ, diệt nhiều Mỹ, công an, cảnh sát Ngụy, mật vụ, bọn ác ôn ở các phường, xóm lao động, xí nghiệp, phá hủy và đốt nhiều xe cảnh sát, quân cảnh Mỹ. Đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi trong đợt một Tết Mậu Thân đã chiến đấu thọc vào khu vực sâu nhất của quân giải phóng là Ngã sáu Minh Mạng, Ngô Gia Tự, Lý Thái Tổ…

Chính tại căn cứ Phước Vân và Long Khê đã có nhiều đồng chí Thành Đoàn (Cánh Thanh niên Công nhân Lao động và Thường trực Thành Đoàn sau này về đây sau đợt 1 Mậu Thân) hy sinh rất dũng cảm. Riêng năm 1967, thời kỳ cánh Thanh niên Công nhân Lao động và đội Võ trang còn trụ bám, đồng chí Phan Thị Mỹ Tâm (Tư Phương), học sinh trường Gia Long, nữ chiến sĩ kiêm giao liên công khai trúng đạn pháo địch hy sinh tại căn cứ Long Khê. Một nữ sinh trong trắng, dũng cảm, trung thực, hiền lành nhưng tận tụy công tác, thể hiện tính cách phẩm chất người đoàn viên Thanh niên cộng sản trong thời chiến để lại trong đồng đội niềm tiếc thương mà anh em trong đơn vị thường nhắc đến.

Căn cứ Phước Vân cho đến ngày kết thúc đã có 6 cán bộ chiến sĩ Thành Đoàn hy sinh: Mười Nam, Út Trung, Hai Trung, Ba Thành, Hồng Liên và Năm Sự (Lê Thị Năm). Chưa kể các đồng chí từ nơi này ra đi làm nhiệm vụ như Thu Vân, Chín Phương, Mười Liên… Riêng đồng chí Năm Sự cùng đồng chí Hai Liên đi công tác gấp dưới cơn mưa tầm tã, mịt mù, đã bị sét đánh. Đồng chí Hai Liên văng ra bất tỉnh, còn đồng chí Năm Sự thì hy sinh lúc vừa tròn 18 tuổi. Tháng 8/1968, toàn Thành Đoàn rời căn cứ Phước Vân về Ba Thu học Nghị quyết mới. Số còn lại cũng lên đường về lại Bến Tre, hoặc vào nội thành công tác. Vậy là đến đây căn cứ Phước Vân đã chấm dứt nhiệm vụ, với một quá trình 4 năm chất chồng gian khổ hy sinh nhưng thấm đậm chất anh hùng, cùng với biết bao kỷ niệm vui buồn của cán bộ chiến sĩ Thành Đoàn đã từng sống, chiến đấu nơi mảnh đất này có thời kỳ đã trở thành tuyến lửa.

Từ sau đợt 2 chiến dịch Mậu Thân, Mỹ Ngụy điên cuồng phản kích, sử dụng bom, pháo, B52, chất độc hóa học… mang tính hủy diệt nhằm vào ruộng vườn, làng mạc, rừng núi để đẩy quân giải phóng ra xa và qua đó tập trung “bình định cấp tốc” gom dân vào ấp chiến lược với tên gọi khác là ấp đời mới, ấp tân sinh, quyết giành lại nông thôn, vơ vét sức người sức của ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, chuẩn bị cho việc chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Cách mạng lúc này đứng trước tình thế hết sức khó khăn. Lực lượng quân sự, chính trị đều bị tổn thất lớn, không bám được địa bàn nông thôn, thành thị. Vùng giải phóng phần lớn bị thu hẹp. Nhiều nơi, các cơ quan căn cứ chỉ còn cách đồn địch vài trăm mét, ăn ở, sinh hoạt phải áp dụng phương châm “đi không dấu, nấu không khói, nói không ra tiếng”. Các lực lượng cách mạng ở nông thôn nói chung, căn cứ Thành Đoàn nói riêng đều nằm trong sự đánh phá rất ác liệt của kẻ thù: bom, pháo, càn quét, đột kích đánh điểm, biệt kích, phối hợp với chiêu hồi gián điệp, chỉ điểm nổi lên. Công tác bàn đạp giao liên ra vào căn cứ khó khăn hơn bất cứ thời kỳ nào. Hy sinh tổn thất trong giai đoạn này khá to lớn.

Tháng 8/1968, theo chỉ đạo của Thành ủy, toàn lực lượng Thành Đoàn rút về Ba Thu (Mỏ Vẹt) thuộc địa phận Campuchia giáp với Việt Nam, để học Nghị quyết “Bình Giả” 1 và chỉnh đốn lại tổ chức. Một số lớn cán bộ của Thành Đoàn chuyển sang tăng cường, củng cố các liên quận bị tổn thất. Thành Đoàn bây giờ còn lại lực lượng cốt cán chỉ đạo phong trào Thanh niên Học sinh Sinh viên và phát triển lực lượng mới, bám lại vùng căn cứ cũ để phục vụ cho phong trào trong tình hình gay go ác liệt như thế.

Tuy nhiên, giữa lúc phong trào cách mạng ở nông thôn đang gặp khó khăn và trong nội thành địch truy sát ráo riết cán bộ, cơ sở cách mạng, thì phong trào Học sinh - Sinh viên Sài Gòn vẫn tiếp tục phát triển lên cao. Sau phong trào “tay nắm tay che” trong các đợt Mậu Thân huy động hàng vạn người tham gia dưới hình thức cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc, giúp nhiều cán bộ có nơi tránh địch truy lùng, đã diễn ra các cuộc hội thảo, mít-ting xuống đường xô xát với lực lượng đàn áp, đặc biệt là phong trào chống bắt lính, quân sự hóa học đường, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Mỹ, đòi hòa bình, chống văn hóa đồi trụy lai căng, đòi thay đổi chính quyền Thiệu Kỳ… Các ngọn cờ công khai Tổng Hội Sinh Viên, Tổng Đoàn Học sinh, Ban Đại diện các trường Đại học, Trung học, Cao đẳng, Kỹ thuật đều do ta nắm và lãnh đạo, hoạt động sôi nổi.

 Sau đợt chỉnh đốn lại tổ chức hồi tháng 8/1968 tại Ba Thu, Thành Đoàn khẩn trương xuống chiến trường về lại căn cứ cũ ở Thanh Hưng, Mỹ Tho để chỉ đạo phong trào, rút cán bộ chủ chốt ra học Nghị quyết và điều lắng cán bộ. Tháng 9/1968, do chiêu hồi, đầu hàng chỉ điểm, địch phát hiện căn cứ Thanh Hưng bao vây đánh phá, đón tại cửa khẩu An Hữu bắt một số đồng chí về họp Ban Chấp Hành gồm Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) Thường vụ, Hoàng Đôn Nhật Tân (Sáu Triều), Nguyễn Văn Sĩ, Nguyễn Thị Chương (Ba Bình), Đỗ Thiết Hùng (Ba Đông), Mười Thiên, dì Hai giao liên… Địch áp giải về Tổng Nha Công an cảnh sát Sài Gòn điều tra. Như vậy là căn cứ Thanh Hưng không còn hoạt động được, đến cuối năm 1968, đã chấm dứt nhiệm vụ.

Tháng 6/1968 - 11/1968

-    Căn cứ Hòa Ninh (Vĩnh Long)

Sau khi địch càn quét ở căn cứ Thanh Hưng (Cái Bè) thì Thành Đoàn chuyển về Hòa Ninh (nay thuộc ấp Hòa Lợi - Châu Thành - Vĩnh Long).

Về căn cứ này có các đồng chí lãnh đạo Thành Đoàn như: đồng chí Phan Chánh Tâm (Ba Vạn), đồng chí Lê Mỹ Lệ (Năm Trang), đồng chí Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm), cùng các cán bộ chủ chốt của Thành Đoàn và các đồng chí giao liên thường xuyên đưa đón cán bộ về đây hội họp.

Tuy nhiên, vì địa hình mỏng, sát nách địch ta chuyển về Cồn Bình Thạnh, Cao Lãnh vào khoảng cuối năm 1968.

Căn cứ Hòa Ninh tồn tại khoảng 5-6 tháng nhưng đã đóng góp một giai đoạn quan trọng của Thành Đoàn sau Mậu Thân 1968. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã về đây học tập, triển khai Nghị quyết an toàn, chỉ đạo vào nội thành được xuyên suốt thuận lợi.


]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15943 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15943 CLB Truyền thống PHẦN BA - Hệ thống căn cứ Thanh niên - Học sinh - Sinh viên trong giai đoạn chống Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965 - 1968) Giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa thực binh Mỹ vào trực tiếp xâm lược Việt Nam, thay vai trò quân Ngụy trong chiến lược “tìm diệt” quân giải phóng và đầu não lãnh đạo cách mạng miền Nam, đẩy quân Ngụy xuống vai trò thứ yếu giữ và bình định. Tue, 11 Sep 2012 10:12:08 +0700
 
PHẦN BA - Hệ thống căn cứ Thanh niên - Học sinh - Sinh viên trong giai đoạn chống Chiến tranh Cục bộ của Mỹ (1965 - 1968)

I. Xây dựng hệ thống căn cứ trên địa bàn đồng bằng Trung Nam Bộ từ 1965 – 1967:

Giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ, đưa thực binh Mỹ vào trực tiếp xâm lược Việt Nam, thay vai trò quân Ngụy trong chiến lược “tìm diệt” quân giải phóng và đầu não lãnh đạo cách mạng miền Nam, đẩy quân Ngụy xuống vai trò thứ yếu giữ và bình định. Trọng điểm “tìm diệt” của Mỹ là miền Đông Nam Bộ, Mỹ Tho, Long An và cực Nam Trung Bộ, đặc biệt là chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, thủ phủ của Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và quân giải phóng. Địa bàn bình định chủ yếu của quân Ngụy là đồng bằng sông Cửu Long.

Tháng 3/1965, Mỹ đã đưa 3.500 thủy quân lục chiến, đơn vị đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng. Đến cuối năm quân viễn chinh đã có 184. 000 tên, trong đó có 20.000 quân “đồng minh”. Với các đơn vị sừng sỏ như Sư đoàn Bộ binh số 1 (Anh Cả Đỏ), Sư đoàn Bộ binh 25 (Tia chớp nhiệt đới), Sư đoàn kỵ binh bay số 1, Sư đoàn Bộ binh 9, Sư đoàn Không vận 101, Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn Kỵ binh thiết giáp 11, Lữ đoàn Bộ binh nhẹ 199, Lữ đoàn Hoàng gia Úc số 1, tiểu đoàn pháo binh Tân Tây Lan và một số đơn vị Nam Hàn. Mỹ xây dựng ồ ạt ngay hệ thống căn cứ liên hợp quân sự Long Bình (Biên Hòa), Thủ Đức, Dĩ An, Đồng Dù (Gia Định), Rạch Kiếng (Long An), Lai Khê (Bình Dương), Trảng Lớn (Tây Ninh), tăng cường đánh phá ác liệt vào Củ Chi, Bến Cát với mật độ bom pháo dày đặc, hòng ngăn chặn, giải tỏa áp lực tiến công của quân giải phóng đối với Sài Gòn và các vị trí quan trọng. Mỹ tổ chức ngay chiến dịch phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất 1965 - 1966, tiến hành hàng loạt các cuộc càn quét, sử dụng cả B52, tàn phá dữ dội mọi địa hình, nhà cửa ruộng vườn như các trận càn Marauder, Crimp, Mastib, Rolling Stone, Sweep, Hatties-burg, Silver City, Mali, Whinwee, Birmingham, Austin, Hardi Hood, Deed đánh vào Hậu Nghĩa, Hố Bò An Nhơn Tây, bắc Củ Chi, Bời Lời, Nhà Đỏ Bông Trang (Bình Dương), Bến Cầu (Tây Ninh) chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, Dầu Tiếng, Phước Long, Bà Rịa, khu vực căn cứ Trung ương Cục. Chiến dịch mùa khô lần thứ nhất của Mỹ bị thất bại, thiệt hại thương vong nặng, buộc phải kết thúc vào tháng 5/1966, sớm một tháng, nhưng mức độ tàn phá cũng hết sức lớn. Trên cơ sở đó, chúng lùa dân vào các khu, ấp chiến lược do chúng kiểm soát, tạo ra vùng oanh kích tự do. Các căn cứ, bàn đạp giao liên bị ảnh hưởng nặng nề, có nơi hy sinh, có nơi không thể cất nhà, căn lều, mà phải sống dưới hầm. Việc đưa đón khách ra vào bị kiểm soát nghiêm ngặt, cực kỳ khó khăn, trong khi phong trào đô thị trước sự xâm lược của Mỹ gây ra làn sóng căm phẩn trong các tầng lớp nhân dân, tiếp tục dâng cao với nội dung chống Mỹ xâm lược, đòi lật đổ chính quyền Thiệu - Kỳ và với mức độ bạo lực rất quyết liệt so với thời kỳ trước. Trước tình hình nói trên, Khu ủy chỉ đạo chuyển dần căn cứ về các tỉnh đồng bằng, nơi có dân cư đông đúc bảo bọc che chở, mức độ bom pháo, càn quét ít ác liệt hơn, đường ra vào cứ thuận lợi, hợp pháp, để đáp ứng kịp thời phong trào đô thị.

1965 - 1966:

- Xã Thanh Tuyền, xã Thạnh An (Bến Cát - Bình Dương)

- Xã Nhuận Đức, Ấp Bến Cỏ, xã Phú Hòa Đông, xã Trung An, xã Trung Lập Thượng (Củ Chi)

Căn cứ Thường trực khu đoàn, Văn phòng và Ban tuyên huấn vẫn còn đóng tại Thanh Tuyền. Vào cuối năm 1965, một Hội nghị quan trọng của Khu Đoàn được tổ chức tại Thanh Tuyền, tổ chức thêm 5 phân khu đoàn gồm: Phân khu Đoàn Bình Tân gồm có Đặng Công Tâm (Sáu Học), Nguyễn Văn Tư (Bảy Phát), Lê Tú Cẩm (Chín Anh), Nguyễn Thành Hiếu (Ba Thảo) do đồng chí Nguyễn Đông Hà phụ trách; Phân khu Đoàn Nhà Bè có Đặng Quốc Hải, Lê Thị Bạch Cát, Thái Văn Trung (Hai Trung), đồng chí Cường…; Phân khu Đoàn Dĩ An: Đặng Công Danh, Trần Văn Phước… do đồng chí Nguyễn Thị Tràm (Ba Võ) phụ trách; phân khu Đoàn Thủ Đức gồm các đồng chí Bạch Ngọc Giao, Trần Văn Đông (Năm Luận), Phan Thanh Hòa, Phan Hồng Quân (Năm Bình) và phân khu Đoàn Củ Chi. Các phân khu Đoàn trên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các phân Khu ủy tương ứng. Đồng chí Phạm Trọng Danh được chuyển về làm Bí thư phân Khu ủy Bình Tân. Đồng chí Hồ Hảo Hớn (Hai Nghị) được bổ sung vào khu ủy, làm Bí thư khu Đoàn.

Năm 1966, các cánh Võ trang, Thanh niên công nhân lao động ở Nhuận Đức đều nằm trong trận càn, phối hợp với du kích địa phương chống càn, đăng ký lên vành đai diệt Mỹ, rất hăng hái. Nằm ngay trên vành đai bảo vệ căn cứ Đồng Dù, bị địch chà xát ác liệt, cơ quan ăn cái Tết cuối cùng dưới bom đạn Mỹ rồi dời về căn cứ Phước Vân, Long Khê huyện Cần Đước tỉnh Long An đã được xây dựng từ năm 1964. Ban quân sự rời Củ Chi về Thanh Tuyền (Bến Cát) nhưng chỉ để lại đây một bộ phận hậu cần làm nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí chuyển về căn cứ Vườn Thơm và Phước Vân đã xây dựng trước để chuyển vào nội thành. Giao liên bàn đạp vẫn chốt lại Phú Hòa Đông, Trung An, Trung Lập Thượng Củ Chi.

Năm 1966, tại ấp Bến Cỏ, Phú Hòa Đông, một đồng chí cán bộ cánh võ trang Nguyễn Văn Ngó (Út Ròm) ra làm việc ở nhà chị Ngại, cơ sở bàn đạp. Lính càn tới, chị dẫn đồng chí ra hầm bí mật. Địch phát hiện bắn chị bị thương, tra khảo đến chết nhưng chị không khai. Đến tối, địch rút, không thấy chị trở ra, đồng chí lần mò vào nhà, thấy nhà trống không, máu me, bông băng vẫn còn đó, hỏi thăm du kích mới hay sự việc đau lòng, nhưng thật là dũng cảm.

Những tháng đầu năm 1966, bộ phận sinh viên học sinh (S 13) vẫn còn phải ở lại Phú An. Chủ yếu làm nhiệm vụ nối liên lạc với trên. Đồng chí Phạm Kim Dung (Sáu Dung) phụ trách căn cứ này. Trước đó, vào giữa năm 1965, bé Khanh, nữ giao liên công khai, 15 tuổi bị bom napan phủ lên người trong lúc đang tắm, hết sức thương tâm và hy sinh tại bệnh viện sau đó.

Sau, căn cứ bị bom trúng ngay miệng địa đạo, nhưng rất may, các đồng chí đã chuyển đi trước đó. Căn cứ giờ đây qua trận càn, bom đạn cày nát địa hình, phải đào hầm ở để tránh bom pháo và không để máy bay địch phát hiện. Một thời gian sau, căn cứ sinh viên chuyển về Long Cang, Bến Lức, đóng ở nhà chị Mười Ái, chị Năm Rớt, địa hình chủ yếu là dừa nước dọc theo kênh rạch và vườn cây, có đào hầm bí mật, giống như ở Phước Vân - Long Khê. Một buổi sáng cuối năm 1966, lính biệt kích Ngụy vào đến gần căn cứ (Nhà chị Mười Ái, chị Năm Rớt) lực lượng bảo vệ mới phát hiện. Tất cả anh chị em chạy xuống lá chém vè thì lính ập tới. Sợ giặc lùng sục và phát hiện được, chị Năm Rớt nhanh trí đánh lừa chúng. Chị vào nhà, bế thằng con trai 5 tuổi chạy riết ra biển vừa tắm cho bé, vừa đánh vừa la lớn: “Mới sáng sớm mà lội sông rạch phá phách”. Bé khóc nức nở, hai mẹ con làm ầm cả xóm. Dấu vết anh em vừa lội xuống rạch nhờ đó được “hợp pháp hóa”. Bọn địch thấy vậy không nghi ngờ gì bỏ đi. Cũng vào cuối năm 1966, đồng chí Phan Quốc (Sáu Phong) vào cứ học Nghị quyết qua ngả Bến Lức. Trên đường vào, đồng chí bị một tên cảnh sát chìm chặn lại hỏi giấy tờ, thấy đồng chí người Quảng Nam nó nghi, bắt đồng chí dẫn đi đến nơi khai là thăm bà con. Dọc đường, đồng chí đánh ngã tên cảnh sát, nhảy xuống sông lội qua bên kia bờ. Lên bờ lại bị du kích bắt, sau đó được đưa về cứ. Lúc này đang vào chiến dịch bình định, địch càn quét thường xuyên, lùng sục bắn phá dữ dội vào các địa hình.

Cuối năm 1966, một trận càn lớn rất ác liệt, lính Mỹ từ Bến Lức dàn hàng ngang càn sát biền lá sông Vàm Cỏ Đông, nơi lực lượng cánh sinh viên ẩn núp, chém vè. Tàu địch trên sông lên xuống bắn phá, nên anh chị em không thể vượt sông tránh càn. Trời mùa đông lạnh lẽo, các đồng chí nằm dưới biền nước lạnh buốt chịu suốt hai ngày đêm. Trận càn này Mỹ giết nhiều thường dân, trâu bò…

Dù vậy, sau càn, cán bộ cơ sở và đồng bào vẫn bám trụ vững vàng. Đường ra vào cứ trở nên khó khăn, địch kiểm soát nghiêm ngặt, mức độ pháo bắn ngày một tăng, căn cứ hoạt động rất hạn chế.

Đồng chí Đặng Thiện, Đoàn ủy cánh sinh viên, phát hiện thông qua đồng chí Tư Sĩ, xã Thanh Hưng huyện Cái Bè - Tiền Giang, là vùng giải phóng tương đối yên bình, dân cư đông đúc, xuồng ghe ra vào tấp nập. Cánh sinh viên rời khỏi căn cứ Long Cang - Long Định để chuyển về Thanh Hưng. Tuy tồn tại chỉ một năm, nhưng căn cứ Long Cang cũng mở được nhiều lớp học, hội nghị và đảm bảo được đường dây chỉ đạo đáp ứng được yêu cầu của phong trào nội thành.

Căn cứ chính của học sinh ở Núi Dinh vẫn còn tồn tại đến tháng 5/1966. Từ giữa cuối năm 1965, bom đạn Mỹ đánh phá vào các xã Long Phước, Long Tân, Long Điền, Hòa Long của Bà Rịa, Phú Hội, Phước Thiện của Đồng Nai vốn là nơi có cứ và đàn đạp của ta, tàn phá ruộng vườn. Núi Dinh cũng là một trọng điểm bắn phá, triệt tiêu. Biệt kích Mỹ, Úc thường luồng rừng mai phục ở những nơi có giếng nước. Vấn đề tiếp tế nước trở nên cực kỳ khó khăn. Năm 1966, địch tiến hành càn quét quyết liệt vùng này. Tháng 3/1966 vào đợt 2 của chiến dịch mùa khô lần thứ nhất, Mỹ tiến hành trận càn có tên là Hardi Hood, ở Bà Rịa có quân Úc tham gia. Núi Dinh là một mục tiêu chính chúng tiêu diệt. Căn cứ học sinh nằm gọn trong tầm hỏa lực. Địch thả bom, bắn pháo cấp tập với từng đợt B52 trút bom rải thảm. Phía trên núi, trực thăng thòng dây cho lính xuống cưa cây rừng dọn bãi đổ quân. Phía dưới núi bộ binh có xe tăng đánh thốc lên, dồn ta vào giữa gọng kềm. Một số ngôi chùa cũng bị chúng bắn phá làm một số ni cô, phật tử chết, bị thương. Lực lượng bảo vệ căn cứ phối hợp với du kích bộ đội địa phương dũng cảm chống càn bảo vệ cơ quan. Từng gốc cây, tảng đá trở thành phòng tuyến để ngăn chặn địch. Cuộc chiến đấu diễn ra suốt 20 ngày đêm, bẻ gãy hàng chục cuộc tấn công của Mỹ - Úc, diệt hàng trăm tên trong cuộc chiến đấu không cân sức. Trong hoàn cảnh ấy xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh dũng. Bốn đồng chí Lê Văn Năm, Trần Văn Phèn, Trần Văn Mạnh và nữ y tá Hoàng Thị Tâm đã nằm lại trên mảnh đất này để lại trong lòng đồng đội, đồng chí niềm thương tiếc vô hạn. Trước tình hình bất lợi, Khu đoàn quyết định cho Đoàn ủy học sinh rời khỏi căn cứ Núi Dinh, một số đồng chí còn hợp pháp, giả làm nhà sư hòa theo dòng người tản cư, còn lại rút theo đường du kích, do đồng chí Nguyễn Văn Chí - Trưởng đoàn, ban đêm tìm đường xuống núi. Đoàn đã lọt ra khỏi vòng vây địch. Sau hơn một tháng hành quân theo đường vòng cung, vượt qua những nơi hiểm yếu, đường rừng có khu vực sốt rét ác tính hoành hành. Đoàn vượt sông Đồng Nai, chiến khu Đ rồi về đến căn cứ An Tịnh, huyện Tràng Bàng. Dọc đường đến đất Cuốc, đồng chí Phan Văn Mùa (Sáu Đông) ngã bệnh sốt rét. Đồng chí Nguyễn Ngọc Thành (Ba Hiệp) xung phong ở lại chăm sóc thay cho một đồng chí nữ được phân công ở lại. Không may đồng chí Thành lại bị sốt rét ác tính chết trên đường chuyển đến bệnh viện mà đồng chí Mùa khi tỉnh lại vẫn không hay biết.

Tại xã An Tịnh, từ tháng 7/1966, Đoàn ủy học sinh tổ chức xây dựng củng cố căn cứ, ổn định làm việc. Đóng cơ quan ở các gia đình ấp An Phú, Tịnh Phong, An Khương, Bàu Mây, An Thới vùng suối sâu Gia Lộc, Gia Quỳnh. Đồng chí Ngô Thị Cẩm Tiên phụ trách bàn đạp tại các gia đình ở ấp Phú An, giao liên Lê Thị Bé Hai, Ngô Thị Cẩm Hương về ấp An Khương và Tịnh Phong, tổ chức được nhiều cơ sở giao liên, bàn đạp đưa đón khách. Căn cứ An Tịnh mở được nhiều lớp học do đồng chí Lê Mỹ Lệ, Nguyễn Thị Thanh Tâm phụ trách, tiếp nhận thư từ công văn chỉ đạo chuyển cho các cánh bên ngoài và bên trong nội thành. Tuy nhiên, căn cứ An Tịnh cũng không nằm ngoài chiến dịch mùa khô và tầm hoạt động ác liệt của bom đạn Mỹ. Phi pháo, bom napan, chất độc hóa học đã đẩy đồng bào vào các vùng chúng kiểm soát. Ra vào căn cứ An Tịnh, không còn dễ dàng, qua nhiều trạm kiểm soát, địch rải mật vụ chiêu hồi nhìn mặt bắt bớ, trên quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh. Tình hình đó buộc Đoàn ủy Học Sinh và các bộ phận khác của Khu đoàn rút khỏi An Tịnh sau Tết 1967.

Thương vong trong chiến dịch mùa khô 1965-1966 giữa quân giải phóng và quân Mỹ cũng như quân Sài Gòn là 1/5, thiệt hại về vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ, Ngụy là rất nặng nề. Mỹ thừa nhận không bẻ gãy được “Xương sống của Việt Cộng”, không làm chủ được chiến trường như mong muốn. Tình hình gần như trở lại lúc ban đầu, chỉ có mức độ chiến tranh là ác liệt.

Tình hình đó, Mỹ phải điều chỉnh chiến lược trong chiến dịch mùa khô lần thứ hai 1966 - 1967. Đó là chiến lược hai gọng kềm “tìm diệt” và “bình định” đặt lại ngang nhau. Quân số Mỹ sẽ tăng lên 470.000 quân. Chỉ mở rộng kiểm soát vùng “ưu tiên quốc gia” 33/48 tỉnh, tập trung chủ yếu là miền Đông Nam Bộ thay vì chiến dịch trước bao gồm cả khu 5, đánh mạnh vào Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy (Bà Rịa), trọng điểm là căn cứ Dương Minh Châu kết hợp bình định các tỉnh “ưu tiên quốc gia” xung quanh Sài Gòn. Tình hình đó, báo hiệu một cuộc chiến vô cùng khốc liệt trên các vùng mà hầu hết các căn cứ của Khu Đoàn đang trú đóng.

Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần 2, 1966-1967 khởi đầu giữa tháng 9/1966 với trận càn lớn: Attenboro 14/9/1967, 30.000 quân đánh vào hậu cần quân giải phóng ở chiến khu D Tây Ninh; Cedar Falls ngày 08/01/1967 với 30.000 quân đánh vào “tam giác sắt” khu Sài Gòn - Gia Định; Junction-City ngày 22/02/1967 đánh vào căn cứ Trung ương Cục, Mặt trận Giải phóng với lực lượng tập trung lớn nhất 45.000 quân. Tất cả nhằm đánh quỵ và bóp chết cách mạng miền Nam, trong đó trận Cedar Falls, trận càn lớn thứ hai của cuộc phản công, trực tiếp đánh vào các căn cứ kháng chiến và lãnh đạo khu Sài Gòn - Gia Định mà các căn cứ của thường trực văn phòng, tuyên huấn, một bộ phận hậu cần quân sự và một bộ phận cánh học sinh của khu đoàn vẫn còn đóng ở đó.

Trận càn Cedar Falls mệnh danh “lột vỏ trái đất” tiến hành từ ngày 08 đến 26/01/1967, trên địa bàn Bàu Bàng, Bến Súc, Long Nguyên, Phú An, Bến Cát và Củ Chi, cách Sài Gòn 40km về hướng Tây Bắc, tập trung một lực lượng 30.000 quân, gồm 6 lữ đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn Anh Cả Đỏ, Tia chớp Nhiệt Đới, sư đoàn 4, Lữ đoàn không vận 173, một bộ phận quân Úc, 8 tiểu đoàn dù quân Sài Gòn, 4 tiểu đoàn tăng thiết giáp có trung đoàn thiết giáp độc lập 11, 8-10 tiểu đoàn pháo 105-155 ly, 1.300 lượt máy bay chiến thuật, 72 lượt máy bay B52, 4 tiểu đoàn công binh với một số đội quân chuột cống, trang bị súng phun lửa, hơi độc, 200 chó berger, 200 xe ủi đất để tiêu diệt đối phương dưới địa đạo.

Với chiến thuật “bốn mặt bao vây, trên bịt kín”, quân Mỹ khóa chặt vòng vây. Sáng sớm ngày 08/01/1967, pháo địch từ hướng Lai Khê, Đồng Dù, Bình Dương, Trảng Bàng bắn cấp tập hàng giờ vào căn cứ, ngớt tiếng pháo là những đợt B52 rải thảm xuống rừng Long Nguyên, rừng làng 123 An Điền, An Thành. Mặt đất run lên lắc lư như đưa võng, khói bụi mù mịt. Sau những đợt B52, đến lượt máy bay phản lực được hướng dẫn của máy bay trinh sát L19 ném bom xăng, bom miểng, bom phát quang. Bầu trời mặt đất như nát vụn với tiếng nổ của bom pháo và tiếng gầm rú của đủ loại âm thanh xe tăng, máy bay. Dứt đợt dọn bãi, tới trực thăng vũ trang quần đảo bắn phá lần chót rồi từng đoàn hàng trăm chiếc trực thăng thi nhau đổ quân xuống các tỉnh lộ 7, tỉnh lộ 14. Xe tăng, xe bọc thép, xe ủi đất từ các hướng đường 13, cầu Ông Cộ, Bến Cát, lộ 7, lộ 8, quốc lộ 1 - Củ Chi càn vào.

Có một số vùng phóng viên nước ngoài ghi lại 27 trái bom trên một mét vuông, xe ủi bới tung hệ thống địa đạo Củ Chi, Bến Cát. Đội quân chuột cống chui hầm dùng súng phun lửa đốt hết không khí, hơi độc phun vào địa đạo. Tại ấp An Hòa, xã Trung An, chúng giết chết một lúc 60 người. 11km2 rừng bị phá nát, thị trấn Bến Súc bị san bằng hoàn toàn với trên 600 căn nhà, 5.700 tấn thóc bị đốt và bị cướp, 1.000 dân chết và bị thương, 15.000 dân bị chúng xúc đi. Mỹ khoe đã phá được 6 hệ thống địa đạo, tổng cộng gần 9,5km.

Sau 18 ngày đêm chiến đấu, bộ đội các lực lượng dân quân du kích, bảo vệ cơ quan, mặc dù lương thực, nước uống cạn kiệt, phải ăn rau, củ sống, uống nước vũng, nước tiểu… đã ngoan cường chiến đấu diệt, làm bị thương 2.500 quân Mỹ, 200 lính Sài Gòn, bắn rơi và bị thương 13 máy bay, phá hủy, phá hỏng 30 xe tăng, xe bọc thép. Tỷ lệ phá hỏng địa đạo thực ra còn nhỏ so với 200 cây số địa đạo và 50 cây số giao thông hào của Củ Chi và Bến Cát.

Những ngày này, các cơ quan của khu đoàn phía Bắc cũng như Nam Bến Cát đã cùng du kích gài mìn, đặt trái bắn tỉa diệt nhiều tên Mỹ, đánh cháy 2 xe tăng. Đến ngày thứ mười, ở Phú An, tại sân banh và trường học Phú Thứ, địch cho xe tăng càn vào đánh sập hầm ngủ, công sự, giếng nước, làm sụp đoạn địa đạo của cánh học sinh, suýt chôn sống năm đồng chí (Tám Lân, Tư Thắng, Hai Trung, Ba Bình, Thanh Hồ). Địch phát hiện lỗ hổng đoạn địa đạo này, cho tổ chuột cống chui xuống bị bảo vệ khu đoàn và du kích diệt gọn 3 tên. Chúng lấy xác đồng bọn và chôn mìn trở lại. Đồng chí Tư Thắng, chiến sĩ cận vệ cho đồng chí Hồ Hảo Hớn dẫm phải mìn hy sinh.
Chỗ trú ẩn không còn, lương thực thực phẩm nước uống dự trữ gần như cạn kiệt. Một số đồng chí phải phân tán xuống bưng biền, ra bờ sông “chém vè”, một số còn lại sang hầm bí mật dự bị gần đó.

Đêm 20/01/1967, có bác nông dân còn lại chiếc ghe giấu dưới rạch còn nguyên vẹn, đồng chí Ba Thảo, Tư Thanh thương lượng mượn được đưa 16 đồng chí vượt sông Sài Gòn sang Phú Hòa Đông (Củ Chi). Gần 1 giờ sáng, theo dòng nước lớn, chiếc ghe len lỏi cập theo mé sông vừa tránh tàu địch thả trôi vừa tránh pháo sáng giăng thả đầy trời, chiếc ghe sang được bờ trái đến ruộng làng, đang loay hoay cập bến Nàng Âm thì thình lình từng loạt đạn của Mỹ phục kích từ trên bờ bắn xối xả xuống ghe. Cuộc tao ngộ quá gần, một số đồng chí bí trúng đạn rơi xuống nước hy sinh, một số đồng chí bị thương nặng, ghe bị thủng nhiều chỗ chơi vơi giữa dòng và trôi dạt về bên kia bờ sông. 09 đồng chí hy sinh mất xác, 05 đồng chí bị thương và 02 đồng chí còn lành lặn.

Qua trận càn, kiểm lại Khu đoàn bị tổn thất lớn.

Phía Bắc Bến Cát, tại Tà Leng, Thanh Tuyền: đồng chí Nguyễn Văn Dữ (Từ Hải) cánh Tuyên huấn hy sinh vì đạn pháo. Đồng chí Hai Hiển, Tuấn, Tài, Mười Hới cánh văn phòng, đồng chí Nhượng cánh quân sự bị bom đìa B57 ném trúng hầm ngủ hy sinh. Chó berger phát hiện, địch khui hầm bắt hai đồng chí cánh học sinh.

Phía Nam Bến Cát, tại ấp Phú Thứ, Phú An: đồng chí Tư Thắng (Văn phòng) bị trúng mìn hy sinh. Các đồng chí Ba Bình, Thanh Hồ (cánh học sinh), Ba Thảo, Ba Quang, Sáu Xuân (cánh quân sự), Tư Thanh, Tư Ẩn, Ba Bực (Văn phòng), Mười Cẩn (Trung ương Đoàn) bị địch phục kích khi qua sông. Tất cả 16 đồng chí hy sinh, 2 bị bắt và một số bị thương.

Ngày 28/4/1967, địch mở trận càn Manhattan, trận cuối cùng của chiến dịch “tìm diệt”, đánh vào vùng Bắc Bến Cát và Nam Dầu Tiếng, căn cứ Ban Quân sự khu đoàn tại Suối Cát (Thanh Tuyền) một lần nữa bị địch càn vào. Đồng chí Bùi Minh Trực (một sinh viên trí thức, tham gia cướp tàu địch, vượt Côn Đảo trở về) chỉ huy chiến đấu đã dùng mìn định hướng cài dưới ruộng mía và trên rừng chồi, bắn rơi một máy bay trinh sát L19 làm chết tên sĩ quan chỉ huy cuộc càn. Hai ngày sau, địch phát hiện căn cứ tập trung bom pháo hủy diệt và bao vây. Đồng chí Bùi Minh Trực, Tám Thông, Ba Hoàng, Tuấn, 04 đồng chí đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và dũng cảm hy sinh bên chiến hào. Đồng chí Bảy Minh, Út Thạnh bị địch đánh chất nổ bất tỉnh và mù mắt, bị chúng bắt đi.

Trên chiến trường miền Đông, qua những năm gian khổ và ác liệt, đương đầu với cuộc chiến tranh cục bộ, nhiều đồng chí cán bộ chiến sĩ khu đoàn đã hy sinh. Ngoài các đồng chí đã nêu trên, còn có các đồng chí như đồng chí Nguyễn Tuấn Giao (Năm Giang) - Thường vụ Khu đoàn bị pháo ở Cỏ Trách (Thanh An), đồng chí Năm Sơn cánh văn phòng bị bom napan ở Xóm đạo Rạch Kiếng (Thanh Tuyền), đồng chí Út Nhứt (cánh quân sự) hy sinh vì trực thăng ở Nhuận Đức, đồng chí Chín Sáng (cánh Văn phòng) hy sinh vì bom bi ở Phú an, đồng chí Tám Giang (Văn phòng), Năm Vững (quân sự) bị địch phục kích hy sinh tại Trà Cao (Trảng Bàng) trên đường hành quân về Bến Tre.

“Vùng Tam giác sắt” qua hai mùa khô bị địch càn quét đã thật sự trở thành vùng trắng. Việc đưa đón cán bộ ra vào căn cứ phải qua nhiều tọa độ lửa, máy bay phi pháo hoạt động ngày đêm, mọi sinh hoạt bình thường phải dựa vào hầm hào địa đạo.

Ở các cửa khẩu chính trên các trục lộ, địch lập nhiều trạm kiểm soát liên hợp như: ngã ba Hồng Châu, Ấp Đồn (Hóc Môn), Mũi Dài (Bình Dương)… chúng rải chiêu hồi, công an, mật vụ chỉ điểm nhìn mặt bắt bớ phá vỡ nhiều cơ sở của ta.

Trước tình hình đó, Khu Đoàn cùng với Ban Căn cứ Khu ủy mở mũi hướng Biên Hòa, Long Khánh, dùng Quốc lộ 20 Sài Gòn - Đà Lạt và Quốc lộ 1 Sài Gòn - Long Khánh, sau 1 tháng điều nghiên thấy gặp nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực và việc xây dựng bàn đạp giao liên, bệnh sốt rét hoành hành, đoàn tiền trạm đành quay về tìm hướng khác.

Được Khu ủy giới thiệu, Khu Đoàn liên hệ được với hai tỉnh Bến Tre và Mỹ Tho, tổ chức di chuyển căn cứ về hướng đồng bằng, tạm xa địa bàn miền Đông truyền thống đã từng bám trụ nhiều năm.

Cuối 1966 đầu 1967:

- Xã Hội Cư, Bà Tồn (Cái Bè - Mỹ Tho)

- Xã Thanh Hưng (Cái Bè - Mỹ Tho)

Cuối năm 1966, sau đợt chống cuộc phản công chiến lược mùa khô lần một của Mỹ, một đoàn cán bộ chiến sĩ gồm 20 đồng chí của các cơ quan khu đoàn từ vùng Củ Chi, Bến Cát lên đường, hơn một tháng vượt qua nhiều ấp chiến lược, và vùng địch bình định, kiểm soát, qua Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Đồng Tháp Mười, đụng đầu với thuyền bay, trực thăng soi đêm trên các kinh Bo Bo, Trà Cú Thượng, đoàn đến Ấp Bắc, Cai Lậy, Mỹ Tho. Sau bữa cơm chiều trên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp, đoàn chia làm ba cánh: đồng chí Phan Văn Mùa (Sáu Đông), Năm Hổ, Hai Trung về xã Hội Cư, Bà Tồn, Cái Bè, Mỹ Tho lập căn cứ học sinh nơi vùng đất mới. Các đồng chí Út Tân, Hai Hiền, Năm Đức cánh Sinh viên về xã Thanh Hưng, An Hữu, Cái Bè, Mỹ Tho. Các đồng chí Út Ròm, Mười Quảng, Tám Điệp cánh văn phòng và cánh quân sự tiếp tục vượt lộ Đông Dương (Quốc lộ 4) qua sông Cửu Long để đến Bến Tre xây cứ ở xã Phước Thạnh.

Xã Thanh Hưng cách thị trấn An Hữu khoảng 8km ngõ vào theo đường sông Cái Cối, đường bộ dọc theo đường liên tỉnh 30 đi Cao Lãnh. Tháng 8/1966, theo hướng dẫn của đồng chí Lê Quang Vinh (Tư Sĩ) có nhà ở vùng này, đồng chí Đặng Thiện về đây làm việc sinh hoạt…, thấy đây là vùng giải phóng tương đối yên bình, dân cư đông đúc, đường ra vào hợp pháp rộng rãi nhiều ngã. Được trên chấp thuận đề xuất, căn cứ sinh viên đã rời Long Cang chuyển về đây. Căn cứ đóng tại nhà Bác Ba (cha đồng chí Sĩ), Bác Năm, bàn đạp giao liên đặt tại nhà cô Mười Bường, cách An Hữu không xa, và nhà chú Bảy Trứ ở sâu vài cây số. Khách vào đến nhà cô Mười thay đồ có giao liên đưa đi bằng xuồng máy vào, hoặc đón thẳng tại bến ghe ở chợ An Hữu vào thẳng nhà chú Bảy Trứ thay đồ rồi vào cứ. Hoặc từ lộ 30, khách có thể đi xe đạp theo giao liên dẫn đường thẳng về. Việc xây dựng cứ lúc đó có đồng chí Phan Văn Dinh (Chín Kế), đồng chí Trần Hữu Phước (Tư Bá), đồng chí Đặng Thiện (Tư Bung), đồng chí Phạm Kim Dung (Sáu Dung) và các đồng chí từ miền Đông về có đồng chí Lê Đình Thám (Mười Thái), Hai Hiền, Năm Đức, Út Tân, Tám Giao. Lực lượng giao liên có các chị: Hai Tâm, Ba Liên, Sáu Hồng, Bé Hồng và sau có bổ sung một số cơ sở địa phương trong đó có gia đình chú Bảy Trứ. Anh chị em chia nhau đào hầm bí mật, xây dựng hội trường để tổ chức lớp học. Máy bay trực thăng và tàu chiến địch cũng thường vào khu vực căn cứ bắn phá, hoặc bộ binh càn quét hai bên bờ sông Cái Cối. Lực lượng bảo vệ phối hợp du kích cùng tổ chức chống càn. Tuy nhiên địch chưa phát hiện căn cứ. Một lần trực thăng quần đảo đột kích bắn chết đồng chí Hai Hiền, bảo vệ. Đồng chí Hai Hiền là một quần chúng nghèo khổ, sống bụi đời ở thành phố, được cách mạng giác ngộ, vào chiến khu tham gia cách mạng. Đó là một đồng chí cần cù công tác, hiền hậu, ít nói nhưng chịu đựng mọi gian khổ trong bom đạn của Mỹ, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ tiếp phẩm cho cơ quan, lớp học của sinh viên ở căn cứ miền Đông. Đồng chí Tám Dễ gài trái sau vườn nhà bác Ba để chống càn, chẳng may bị vướng nổ, chết ngay tại chỗ.

Lúc đầu căn cứ đóng tại Thanh Hưng, sau mở rộng đóng thêm ở một số địa bàn các xã Mỹ Long, Mỹ Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long hợp thành một hệ thống căn cứ liên hoàn nhau, hễ nơi này bị động chuyển qua nơi khác. Thường trực Văn phòng khu Đoàn cũng về căn cứ này để chỉ đạo, triển khai nghị quyết, chỉ đạo công tác của các cánh.

Căn cứ Hội Cư của cánh Học Sinh cũng được thành lập từ những tháng đầu năm 1967 do các đồng chí cán bộ bảo vệ căn cứ từ miền Đông (Núi Dinh, Thanh An, Bến Cát…) về xây dựng. Tháng 4/1967, trên đường chuyển quân, đồng chí Ba Hiệp, do bị sốt rét ác tính, nhiễm từ rừng miền Đông, đã hy sinh. Căn cứ Hội Cư còn gọi là căn cứ Bà Tồn, xã Mỹ Thạnh, nằm giữa thị trấn Cai Lậy và Giáo Đức, cách lộ 4 (nay là quốc lộ 1A), khoảng 5-6km về phía Tây. Tại đây sông rạch chằng chịt nên việc đi lại thuận tiện nhất là đường sông. Tuy nhiên, đây là khu vực sình lầy lại phải xây dựng mới trong vòng 2 tháng. Anh em căn cứ đã xây dựng xong 20 hầm bí mật có sức chứa từ 80 đến 90 người. Vừa xây dựng xong căn cứ đi vào hoạt động chỉ đạo phong trào, mở hội nghị, mở lớp.

Tuy nhiên đây là vùng địch hay càn quét, một khu vực nằm trong trọng điểm của gọng kềm bình định. Ngày 31 tháng 7 năm 1967 địch càn quét dài ngày vào vùng căn cứ. Tất cả cán bộ cơ sở của ta phải xuống hầm bí mật hoặc chém vè. Đồng chí Lê Văn Ninh (Ba Thoại), Phó Bí thư Đoàn ủy cánh Học sinh, đồng chí Trần Trung Tín (Sáu Trúc) cán bộ trường Pétrus Ký xuống hầm bí mật. Địch càn tới đóng quân gần miệng hầm. Có lẽ anh em ta ở miền Đông, chưa có kinh nghiệm đào hầm bí mật nơi vùng trũng thấp của đồng bằng, nên hầm bị ngộp. Tất cả các đồng chí đã dũng cảm hy sinh trong tư thế ngồi dưới hầm, quyết không trừng lên cho giặt bắt. Đồng chí Ngô Văn Nói (Tám Lễ) Trưởng ban binh vận chống càn, dụ địch ra khỏi nơi anh em ẩn trú và anh dũng hy sinh. Lớp học của cánh học sinh năm đó kết thúc giữa chừng trong mất mát đau thương, do bị lộ, căn cứ chỉ tồn tại được một năm phải dời đi nơi khác.

Năm 1967 đến đầu năm 1968:


- Xã Phước Thạnh (Bến Tre).

Năm 1967, do mức độ chiến tranh ngày càng ác liệt, vấn đề căn cứ trở thành bức xúc. Cánh Thanh niên Công nhân Lao động của Khu Đoàn là đơn vị mở mũi về Bến Tre, khu vực tương đối yên tĩnh, để xây dựng căn cứ.
 
Khoảng giữa năm 1967, căn cứ Long Khê, Phước Vân, nhất là Long Khê nằm trong khu vực “bình định trọng điểm” của Mỹ Ngụy nên hoạt động không còn an toàn và rất khó khăn. Lãnh đạo cánh Thanh niên Công nhân Lao động một mặt chuyển dời cứ Long Khê nhập về căn cứ Phước Vân, mặt khác, đồng chí Hồ Thái Hòa (Năm Khoa) Bí thư Đoàn ủy, liên hệ tỉnh ủy Bến Tre, chuyển một bộ phận về xây căn cứ tại xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, kết hợp có đoàn cán bộ của Khu Đoàn và cánh Quân sự cũng về đây. Trước đó, năm 1966 một bộ phận Đoàn ủy Học sinh cũng đã về Bến Tre, lập căn cứ nhỏ ở ấp 6, xã Quới Sơn, tại nhà gia đình đồng chí Đặng Quốc Hải (Chín Ngự, Chín Quốc) và một số gia đình xung quanh, dành cho cơ sở về làm việc và mở lớp ngắn ngày với khoảng 5, 7 học viên. Đây là vùng giải phóng yếu, nên căn cứ không phát triển mở rộng và cũng không tồn tại lâu. Còn xã Phước Thạnh là một trong các xã giải phóng dọc hai bờ sông Ba Lai, rừng dừa bạt ngàn, nhưng vào năm 1967 cũng đã bị bom đạn Mỹ tàn phá lỗ chỗ, với những hố bom, những cây dừa cụt đọt hay thương tích trên mình. Nhà cửa phần lớn chưa bị đốt phá nhưng trống vắng hoang tàn, dân ở thưa thớt, phần lớn đã tản cư vào thị xã hoặc qua cồn Mỹ Tho. Lên phà Rạch Miễu theo tỉnh lộ 6 vào thị xã hoặc lộ đá từ ngã tư Trúc Giang về An Hóa, Bình Đại, theo đường đê rẽ vào vài trăm thước đã thấy có cổng chào, khẩu hiệu và cờ giải phóng, cho biết là đã đến vùng mặt trận giải phóng kiểm soát. Riêng xã Phước Thạnh, từ ấp 2 đến ấp 4 ở cuối xã là vùng hoàn toàn giải phóng. Ấp 1 là vùng tiếp giáp với tỉnh lộ 6. Căn cứ ban đầu đóng ở ấp 1 và ấp 2 tại nhà má Hai Dĩ, ông bà Ba Bộ, ba má Vinh, má Sáu, bà Sáu Chiêm, bà Ba Nhung, dì Tư Huê, bà Mười Nga, ông Trần Danh, ông Trần Đàn, anh Ba Trọng, anh Tư Sâm… Sau, triển khai sâu vào ấp 3 và ấp 4, mở thêm cứ nhánh ở xã Tam Phước, Song Phước bên kia bờ sông Ba Lai và xã Hữu Định tiếp giáp với xã Phước Thạnh về hướng thị xã. Bàn đạp ra các xã Phú An Hòa, Song Phước, Hữu Định, ấp 1 Phước Thạnh lên tỉnh lộ 6 và lộ đá về ngã tư Trúc Giang. Lúc này còn tương đối hòa bình địch ít dám càn sâu, chỉ men theo lộ, địa hình kín đáo, địch khó phát hiện, nên bom pháo hay tàu càn vào sông Ba Lai chỉ bắn vu vơ những chỗ tình nghi. Văn phòng thường trực, Ban Tuyên huấn, Ban quân sự, Khu Đoàn cũng về đóng tại ấp 3 và ấp 4 vào giữa nửa cuối năm 1967. Căn cứ đóng ở nhà dân còn bỏ trống, dùng dừa cây bị ngã đắp công sự nổi, và đào hầm bí mật ngoài vườn. Tại căn cứ này, cánh Thanh niên công nhân lao động đã mở được nhiều lớp huấn luyện chính trị quân sự. Đường dây chỉ đạo, chuyển tải thư từ tài liệu vũ khí thuận lợi, an toàn.
 





]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15935 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15935 CLB Truyền thống Phần 2: Việc thành lập căn cứ đầu tiên và phát triển hệ thống căn cứ TN-HS-SV trong giai đoạn từ Đồng Khởi đến chống chiến tranh đặc biệt 1960 – 1965<br> Từ năm 1959, tổ chức cách mạng trong học sinh sinh viên bắt đầu bể nặng. Nhiều đồng chí lãnh đạo bị địch bắt, phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ, phong trào văn hóa văn nghệ tiến bộ trong các trường vốn là thế mạnh của giới cũng bị chìm xuống. Mon, 10 Sep 2012 13:59:08 +0700

PHẦN HAI: Việc thành lập căn cứ đầu tiên và phát triển hệ thống căn cứ TN-HS-SV trong giai đoạn từ Đồng Khởi đến chống chiến tranh đặc biệt 1960 – 1965


1.    Việc thành lập căn cứ đầu tiên

Tháng 8/1960 (Ấp Xóm Bưng, Ấp 6 (các đồng chí cán bộ Thành Đoàn gọi lớp học đầu tiên này là lớp “Rừng Già"). Lớp thứ hai cũng do Khu ủy tổ chức tại rừng Bời Lời, căn cứ của Khu ủy ở xã Lộc Thuận, huyện Trảng Bàng, Bàu Cạp xã Nhuận Đức, Củ Chi).
 
Đồng chí Nguyễn Văn Linh phát biểu chỉ đạo hội nghị cán bộ nội thành của Khu Đoàn tại căn cứ miền Đông năm 1972

Từ năm 1959, tổ chức cách mạng trong học sinh sinh viên bắt đầu bể nặng. Nhiều đồng chí lãnh đạo bị địch bắt, phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ, phong trào văn hóa văn nghệ tiến bộ trong các trường vốn là thế mạnh của giới cũng bị chìm xuống. Tuy nhiên, vào cuối năm, Nghị quyết 15 của Đảng về đường lối đấu tranh chính trị kết hợp võ trang được triển khai đã làm bùng lên một cao trào đồng khởi trên toàn miền Nam vào năm 1960, đánh sụp ngụy quyền cơ sở ở nông thôn mở ra hàng loạt vùng giải phóng. Tình hình trên đã tác động mạnh mẽ vào đô thị. Đây là thời cơ chiến lược để phong trào cách mạng đô thị vực dậy, chuyển thế tiến công. Trước tình hình trên, Khu ủy gấp rút củng cố lại lực lượng cách mạng ở đô thị để đưa phong trào tiến lên.

Tháng 3/1960, Khu ủy chủ trương rút một số cốt cán bao gồm các đồng chí lãnh đạo liên chi học sinh sinh viên và một số cán bộ đang phụ trách các trường lớn ở Sài Gòn ra chiến khu dự lớp bồi dưỡng chính trị triển khai Nghị quyết 15. Lớp thứ nhất, triệu tập 15 đồng chí nhưng chỉ đến được 13 - hai đồng chí bị địch bắt - được tổ chức tại khu căn cứ của xứ ủy ở Chàng Riệc, huyện Tân Biên - Tây Ninh gần biên giới Campuchia. Thời gian mở lớp từ cuối tháng 3 đến cuối tháng Tây Ninh với số cốt cán còn lại, có mở rộng thêm số đảng viên, đoàn viên ưu tú, vào tháng 8/1960, thời gian học có rút ngắn hơn (các đồng chí gọi đây là lớp “Rừng Xanh” 1). Cả hai lớp học đều dưới sự chỉ đạo của bí thư khu ủy Võ Văn Kiệt, đồng chí Huỳnh Tấn Phát - Ủy viên Thường vụ Khu ủy làm trưởng ban phụ trách lớp.

Cũng khoảng thời gian này, Khu ủy quyết định thành lập Ban vận động HSSV khu Sài Gòn - Gia Định thay cho liên chi ủy cũ đã bị tổn thất nặng, phân công đồng chí Trần Quang Cơ (Tám Lượng) làm bí thư, đồng chí Hồ Hảo Hớn (Ba Lực) làm phó bí thư, đồng thời chủ trương thành lập căn cứ riêng của HSSV để Ban đứng chân chỉ đạo phong trào, điều lắng cán bộ bị lộ và mở lớp huấn luyện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng viên, đoàn viên nòng cốt cách mạng cho phong trào sau này. Đó là một chủ trương mang tính chiến lược và rất kịp thời.

Trong cao trào Đồng Khởi, huyện Củ Chi thuộc khu Sài Gòn - Gia Định giải phóng được 4 xã Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông và Phú Mỹ Hưng, gắn liền với rừng miền Đông, căn cứ địa của Xứ ủy. Ngay sau hội nghị thành lập Ban vận động HSSV tháng 8/1960, Khu ủy chỉ định thành lập căn cứ đầu tiên của cánh HSSV tại xã Nhuận Đức - Củ Chi, với sự giúp đỡ tích cực của chi bộ địa phương, cách căn cứ Khu ủy ở Lộc Thuận - Trảng Bàng, 2 xã An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng, cách Sài Gòn trên 30km. Căn cứ đóng tại rừng làng, các đồng chí gọi là rừng Quang Trung thuộc ấp Xóm Bưng (Bàu Kính) giáp đồn điền cao su Sở Ớt. Đó là cánh rừng chồi thấp và mỏng, bán kính chỗ dài nhất trên 100m, chỗ ngắn nhất chừng 50m, nhưng có địa đạo 80m đào sẵn hồi kháng Pháp, trổ lên ở bìa rừng cao su bằng một nắp bí mật. Địa phương đã giúp rào rắp xung quanh, bố trí cạm bẫy, vét giếng, sửa sang lại địa đạo. Do vùng mới giải phóng, địa bàn mỏng nên sinh hoạt ăn ở phải luôn thật gọn nhẹ, nội quy phải thật nghiêm ngặt, không tiếng động lớn, không để lọt ánh sáng ra ngoài, ra vào xóm phải chờ đến lúc đêm. Ban ngày chỉ được căng võng dưới tán cây để làm việc, nghỉ ngơi, chỉ ban đêm hoặc lúc mưa mới căng lều. Tài liệu, đồ đạc trang bị phải có chỗ chôn giấu cẩn thận. Khi địch càn vào không để lại dấu vết…

Cùng lúc với việc xây dựng căn cứ, bàn đạp ra vào thành phố cũng được xây dựng ở các vùng yếu xung quanh, nơi tiếp giáp vùng địch, chia làm nhiều hướng: hướng Phú An, Phú Thuận, Phú Mỹ, Bến Cỏ thuộc xã Phú Hòa Đông ra tỉnh lộ 8 và tỉnh lộ 15; Tân An Hội, Trung Lập Hạ Trảng Lắm Bàu Tre, Cây Bài, Bà Giã, Cây Da thuộc Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An thuộc Củ Chi ra Quốc lộ 1 Sài Gòn - Tây Ninh.

Cơ quan lúc đầu chỉ mới có 6 đồng chí: hai đồng chí lãnh đạo là Trần Quang Cơ và Hồ Hảo Hớn, một cán bộ phụ trách việc Văn phòng và bảo quản là học viên lớp “Rừng Già” tạm ở lại chưa bố trí được vào nội thành, hai bảo vệ kiêm liên lạc, người của địa phương cung cấp, một đồng chí phụ trách bàn đạp giao liên có kinh nghiệm do trên cử về là đồng chí Nguyễn Thị Minh (Ba Tiến).

Tháng 11/1960, Khu ủy triệu tập hội nghị thành lập Ban cán sự Đảng học sinh sinh viên Khu Sài Gòn - Gia Định thay Ban Vận động gồm 7 ủy viên: đồng chí Trần Quang Cơ - bí thư, đồng chí Hồ Hảo Hớn - phó bí thư, đồng chí Lê Minh Châu (Ba Cảnh), Phan Chánh Tâm (Năm Pha), Bùi Minh Trực (Hai Em), Tăng Anh Dũng (Hai Minh), Nguyễn Thị Tràm (Ba Võ). Đồng chí Nguyễn Ngọc Thưởng nguyên giáo sư Huỳnh Khương Minh làm Chánh Văn phòng, đồng chí Nguyễn Văn Lê là Phó Văn phòng. Căn cứ lúc bấy giờ có thêm bộ phận in ấn, văn thư do đồng chí Phạm Thanh Liêm (Năm Hài), Nguyễn Hữu Nghĩa (Chín Đại)… phụ trách, đồng chí Vũ Thị Tiềm (học sinh Kiến Thiết) phụ trách y tế. Bộ phận bảo vệ, xây dựng cứ và bàn đạp có thêm người phụ trách là đồng chí Tư Tộc (Đặng Văn Danh) và sau này phát triển thêm một số đồng chí khác. Giao liên nối với nội thành cũng được hình thành mạng lưới gồm các chị Mười Hồng, Út Phấn, Bảy Tiến, Ba Liên, Hai Thu, Bảy Mia…

Chỉ trong vòng vài tháng, căn cứ hoạt động ngày càng dồn dập. Thư từ, tài liệu chỉ đạo, báo cáo, đưa đón khách ra vào làm việc triển khai công tác, tổ chức lớp 10 ngày, điều lắng… rộn rịp cả ngày lẫn đêm. Phong trào hoạt động bên trong bắt đầu chuyển mạnh, nhất là từ sau ba sự kiện chính trị lớn dồn dập diễn ra: đảo chính Diệm ngày 11/11/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20/12/1960, Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng miền Nam và Hội Liên hiệp Học sinh Sinh viên khu Sài Gòn - Gia Định được thành lập ngày 09/01/1961. Cờ Mặt trận, truyền đơn hiệu triệu, khẩu hiệu xuất hiện trong các trường học, chợ, xóm lao động các vùng nông thôn ven. Tin tức, khí thế đồng khởi liên tục dội vào đô thị. Lực lượng cách mạng trong nội thành phát triển nhanh chưa từng thấy. Nhiều trường đã nhanh chóng thành lập chi hội học sinh sinh viên giải phóng kết nạp đông đảo hội viên. Căn cứ Xóm Bưng không còn đủ sức chứa do lượng người vào ra ngày càng nhiều. Một vài bộ phận như in ấn, chép tin, cán bộ điều lắng phải triển bớt ra căn cứ phụ bên cạnh trong cụm rừng nhỏ thuộc Sở Ớt. Đồng chí Tư Tộc, Ba Tiến… phải gấp rút đi tìm phát triển căn cứ mới và các lỏm ở Bàu Lách, Bàu Chứa, Bàu Cạp, ấp Đức Hiệp xã Nhuận Đức, ở Phú Hòa Đông, Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung để đón khách (cơ sở cách mạng, cán bộ) ra làm việc học tập ngắn ngày.

Khoảng tháng 1/1961, trước Tết âm lịch, địch tổ chức trận càn quy mô một tiểu đoàn thọc nhanh vào căn cứ Xóm Bưng trong lúc Ban cán sự đang mở lớp cho 20 cán bộ trong nội thành ra học. Toàn bộ vừa kịp xuống địa đạo nhưng đã bị địch phát hiện, quăng lựu đạn phá miệng hầm và bao vây chặt khu rừng, xin lệnh. Đến tối, Ban cán sự cho bảo vệ trổ miệng hầm bí mật lên trinh sát thấy chỉ cách địch đóng quân vài mươi mét. Ban cán sự cương quyết chủ trương cho toàn bộ lực lượng lên khỏi miệng địa đạo, rút êm về các căn cứ phụ. Bộ phận thường trực, văn phòng, in ấn về Bàu Cạp, Bàu Chứa, Bàu Lách, đóng cơ quan tại các gia đình má Sáu Tới, anh chị Ba Tỳ, Tư Miền, Phạm Văn Cội, Ba Lui, chị Hai Kiều… Bàu Cạp trở thành căn cứ chính của Ban cán sự. Bộ phận học sinh sinh viên đi sâu xuống tỉnh lộ 8 ấp Cây Bài, Bà Giã xã Phước Vĩnh An do đồng chí Tăng Anh Dũng (Hai Minh) phụ trách, đóng quân tại nhà chú Ba Trân, chú Hai Tiếu, cô Chín Tẩu, Bảy Phát. Việc sắp xếp được quyết định ngay trong đêm.

Sáng hôm sau , địch được lệnh đánh sập địa đạo hòng tiêu diệt toàn bộ lực lượng ta.

Căn cứ Xóm Bưng sớm kết thúc vai trò nhiệm vụ đi đầu nhưng rất vẻ vang, để lại nhiều kinh nghiệm về xây dựng tổ chức căn cứ và một thực tiễn có ý nghĩa chiến lược của hậu cứ đối với phong trào đấu tranh đô thị. Chính hậu cứ là chỗ dựa vững chắc và nhân lên gấp nhiều lần sức phát triển cả về mặt phong trào lẫn lực lượng cách mạng, cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh võ trang ở đô thị. Từ đây, Thành Đoàn (tên gọi chung của Khu đoàn và Thành Đoàn) phát triển hàng loạt các căn cứ hình thành hệ thống theo đà lớn lên của phong trào đô thị qua các thời kỳ của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

2. Hệ thống căn cứ HSSV trong thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ 1961 - 1965:


Để đối phó với cuộc Đồng Khởi của nhân dân miền Nam đang đẩy nhanh chính quyền Ngô Đình Diệm lâm vào nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, bước vào năm 1961, Mỹ đã chọn con đường tiến hành chiến tranh đặc biệt, với kế hoạch Staley - Taylor, thực hiện quốc sách gom dân vào Ấp Chiến Lược, củng cố ngụy quyền đang suy sụp cả về tổ chức và thanh thế, tăng cường quân đội ngụy từ chính quy đến địa phương quân bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu cả về số lượng, khả năng chiến đấu, sức cơ động, khí tài…, tiến công lực lượng cách mạng bằng các thủ đoạn “tát nước bắt cá”, “bủa lưới phóng lao”, “phượng hoàng vồ mồi”, “trên đe dưới búa”, “sóng tình thương” (vùng sông nước miền Tây và Trung Nam Bộ), áp dụng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” mà chúng cho là cực kỳ lợi hại, với ý đồ bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.

Tuy nhiên, kế hoạch Staley-Taylor phải đến giữa năm 1961 mới hoàn thành các bước triển khai. Trước đó quân đội và chính quyền Sài gòn vẫn bị động, lúng túng trước sức tiến công của cách mạng trên khắp 3 vùng nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị cả các mặt chính trị và võ trang.

Sau sự kiện căn cứ Xóm Bưng bị đánh phá, mặc dù có khó khăn về vấn đề căn cứ, Ban cán sự vẫn chủ trương mở lớp huấn luyện cho đông đảo cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên giải phóng là những nòng cốt của phong trào mới phát triển, nhân dịp tết Nguyên đán Xuân 1961.

Mọi người được hưởng một cái Tết khí thế cách mạng của vùng giải phóng đầy ý nghĩa, trong không khí hân hoan chào mừng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Hội Liên hiệp Học sinh Sinh viên Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định vừa ra đời, chào mùa xuân giải phóng, có mít-tinh, có lãnh đạo Mặt trận đến nói chuyện, có đoàn văn công của Khu phục vụ do một cán bộ nguyên là học sinh Sài Gòn, đồng chí Nguyễn Hiếu Tín (Nguyễn Trường Hùng) làm trưởng đoàn, có tham quan các đơn vị lực lượng võ trang giải phóng… động viên mọi người phấn khởi càng tin tưởng ở sự nghiệp giải phóng đầy chính nghĩa, hăng hái chiến đấu đưa phong trào thanh niên đô thị tiến lên cao hơn nữa.

Được sự chấp thuận của Khu ủy, lớp học được mở tại căn cứ của Khu, trong một cánh rừng chồi thuộc xã Lộc Thuận. Lớp học lần này có trên 60 học viên. Các đồng chí Thành Đoàn đặt tên là lớp “Rừng Xanh 2”. Lớp học đạt yêu cầu mỹ mãn, ai nấy đều tin tưởng, hăng hái lao về đô thị công tác.

Giữa tháng 3/1961, Ban cán sự họp tại căn cứ Bàu Cạp, kiểm điểm tình hình phong trào và tổ chức cách mạng học sinh sinh viên nội thành, bổ sung đồng chí Lê Hồng Tư vào Ban cán sự, thành lập cánh Thanh niên Lao động và Đội võ trang tuyên truyền Quyết tử. Đồng chí Lê Hồng Tư phụ trách cả hai khối này, được Khu ủy đồng tình và phân công đồng chí Trần Quang Cơ theo dõi chỉ đạo. Cánh võ trang và thanh niên Lao động phát triển thêm căn cứ và bàn đạp tại ấp Tây Kinh xã Bình Hòa huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre, quê hương của đồng chí Trần Văn Bộ (Ba Nhiệm), cán bộ lãnh đạo của đội võ trang mở được hai lớp huấn luyện chính trị quân sự cho cơ sở. Tháng 5/1961, cánh 15 (ký hiệu của cánh võ trang thanh niên lao động) được chỉ đạo rút về Củ Chi. Ngày 27/3/1961, đội Quyết tử ra quân đánh trận đầu tiên, quăng lựu đạn vào cơ quan cố vấn Mỹ USOM, gây thương vong cho bọn sĩ quan Mỹ, trận sau giết hụt Đại sứ Mỹ Nolting đang đi trên xe (lựu đạn liệng vào ngay chỗ ngồi của ông ta nhưng không nổ), nhưng đã gây chấn động dư luận trong nước và thế giới.

Để giải quyết vấn đề căn cứ đáp ứng cho yêu cầu của phong trào ngày càng bức thiết, Khu ủy chỉ đạo Ban cán sự HSSV ngoài địa bàn Củ chi căn cứ đã có sẵn và tiếp tục củng cố, cần triển khai xây dựng thêm căn cứ về phía Long An ở các xã giải phóng gần biên giới hoặc vùng sâu thưa dân, địch ít chú ý hoạt động. Khu ủy cũng mở thêm căn cứ theo hướng đó để phục vụ thêm cho yêu cầu huấn luyện mở hội nghị, điều lắng cán bộ.

Tháng 7/1961: Giồng Ông Hòa, Ấp Rừng Sến, xã Mỹ Hạnh Bắc, Đức Hòa, Long An

Chấp hành sự chỉ đạo của Khu ủy, tháng 4/1961 Ban cán sự phân công một số cán bộ về Long An mở cứ. Một đoàn do đồng chí Lê Minh Châu phụ trách, có đồng chí Nguyễn Văn Lê cùng một số đồng chí khác về Đức Hòa, chọn Giồng Dên Dên, Giồng Ông Hòa để xây dựng căn cứ cho Thường trực và Văn phòng Ban cán sự, cơ sở in ấn. Ở vùng này, căn cứ ở trong nhà dân. Đồng bào có truyền thống cách mạng nuôi chứa bảo vệ và tham gia cách mạng, đất cũng dễ đào hầm bí mật. Nhà nào cũng có vuông tre rào rất kiên cố chống địch lùng sục. Nhưng nhược điểm giữa các xóm là đồng trống, địa hình chia cắt. Nếu bị lộ, địch đánh điểm dễ bị tổn thất. Một đoàn do đồng chí Nguyễn Văn Ly (Tư Kết) phụ trách xây dựng căn cứ trường lớp, thọc sâu vào Đồng Tháp Mười vùng Kinh Ba Reng (đúng tên là Ma Reng, nhưng nhân dân quen gọi là Ba Reng) xã Bình Hòa Bắc huyện Đức Huệ. Một đoàn về hai xã Hòa Khánh và Tân Phú Thượng vùng Rạch Nhum nằm bên bờ sông Vàm Cỏ Đông huyện Đức Hòa để xây dựng bàn đạp, giao liên do đồng chí Mười Hồng phụ trách.

Công việc được triển khai từ cuối tháng 3/1961, sau 2 tháng khẩn trương thì việc xây cứ ở các cánh cơ bản ổn định, vừa xây vừa khắc phục khó khăn do đặc điểm tại chỗ của từng cứ, vừa phục vụ mở lớp, mở hội nghị hay hoạt động chuyên môn theo tinh thần “vừa chạy vừa sắp hàng”.

Khoảng tháng 7/1961, Thường trực Ban cán sự, Văn phòng, nhà in chuyển từ Bàu Cạp Nhuận Đức Củ Chi sang căn cứ mới ở Đức Hòa. Thường trực làm việc tại nhà Ông My (ông Một) ở Giồng Ông Hòa ấp Rừng Sến xã Mỹ Hạnh Bắc. Đến đây, bộ phận văn phòng Ban cán sự được chính thức thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Lê làm Chánh Văn phòng. Nhà in đóng gần Thường trực. Bàn đạp giao liên ra nhiều ngã dọc trục lộ 9 Củ Chi, lộ 10 Cầu Xáng Đức Hòa, Đức Huệ, phát triển thêm đường sông Vàm Cỏ Đông. Giao liên có thêm cô Út Lan.

Tháng 8/1961: căn cứ “Đại Tây Dương"

Tháng 8/1961, Ban cán sự làm việc với cánh sinh viên ở căn cứ Giồng Dên Dên xã Mỹ Hạnh.

Nửa chừng có tin báo động địch sẽ càn vào vùng này, hội nghị kết thúc sớm. Một số đồng chí về lại Củ Chi trong đêm. Hôm sau, ngày 19/8/1961, địch chia làm 3 mũi càn vào các xã Đức Hòa, Đức Lập, hầm bí mật bị ngập nước, các đồng chí buộc phải thoát ly công sự rút qua đồng bưng bị một cánh địch phát hiện, bắn chết đồng chí Huỳnh Văn Nhí (Ba Trung), Nguyễn Thị Chinh (vợ đồng chí Nguyễn Đông Hà), đồng chí Trần Quang Cơ bị thương. Trước họng súng của kẻ thù, đồng chí quyết không đầu hàng, mắng thẳng vào mặt chúng và hô khẩu hiệu… Địch bắn đồng chí Trần Quang Cơ hy sinh, còn lại đồng chí Lê Quang Vịnh và Nguyễn Văn Dung chúng bắt đem về khai thác.

Qua cuộc càn quét, địch phát hiện một số tài liệu có liên quan đến phong trào đấu tranh ở nội thành, chúng ra sức khai thác và bắt nhiều cán bộ cơ sở. Phong trào quần chúng bị khủng bố, cán bộ còn lại phải điều lắng. Để đối phó tình hình khó khăn trên, Ban cán sự phải di chuyển về xã Tân Phú Thượng, xã Bình Hòa Bắc vùng Hội Đồng Sầm.

Tại Bình Hòa Bắc, theo quyết định phân công của Ban cán sự, hồi đầu tháng 4/1961 đồng chí Nguyễn Văn Ly (Tư Kết) cùng đồng chí Mười Tươi và ông Năm về xây dựng căn cứ huấn học trường lớp tại Kinh Ba Reng. Căn cứ nằm giữa đồng đưng giáp biên giới Campuchia, có thuận lợi là xa đồn bót địch, ít bị càn, nhưng khó khăn là xa đồng bào, đường vận chuyển, tiếp tế xa. Mùa nước nổi, căn cứ chơ vơ giữa trời nước mênh mông, rắn rít tìm đến trú ẩn cũng rất nguy hiểm, có người bị rắn cắn phải tháo khớp đốt ngón tay. Mùa nắng lại thiếu nước ngọt, nước sinh hoạt vì vùng đất phèn. Bàn đạp đón khách ở tận Hiệp Hòa, Bàu Trai, Thủ Thừa, Bến Lức. Bộ máy tổ chức căn cứ này chỉ có các đồng chí NguyễnVăn Ly, sau có thêm đồng chí Nguyễn Thị Loan Anh ở tù về và đồng chí Đặng Quốc Hải làm cán bộ giảng huấn. Đồng chí Tư Chánh phụ trách công tác quản lý hậu cần, đồng chí Nguyễn Thị Hiếu (Bảy Khẩn) làm nhiệm vụ y tá, đồng chí Út Thống làm giao liên đưa đón khách về cứ và bảo vệ. Đồng chí Sáu Minh phân công chép tin. Việc xây cứ vô cùng gian khổ, nhưng lao động cật lực. Đi xin tre trúc ở xóm nhà đồng bào cách nửa ngày đi bộ, từ đó vận chuyển về cắt đưng bện thành tấm làm mái và vách, đắp nền cao tránh lũ, độ trên một chục căn nhà. Lương thực thực phẩm phải vận chuyển một khối lượng lớn đảm bảo cho cả trăm người từ những nơi rất xa…

Tuy nhiên, bằng quyết tâm vượt khó của các đồng chí xây cứ và sự giúp đỡ tích cực của các đồng chí phụ trách căn cứ khu ủy đóng bên cạnh (cách 400m) và các đồng chí ở công trường sản xuất vũ khí của huyện Bình Tân, phần lớn khó khăn cũng được khắc phục.

Đầu tháng 8/1961 trường bắt đầu mở lớp và tổ chức hội nghị cán bộ. Số học viên và cán bộ về dự hội nghị rất đông, lên đến cả trăm người, đông nhất từ trước đến nay. Lớp bắt đầu học được mấy hôm thì mưa lũ tràn về. Năm này, nước lũ về sớm hơn mọi năm, ngập cả nhà học viên, hội trường, bếp núc, phải kê ván sàn, ăn nghỉ, học tại chỗ. Đi lại phải bằng xuồng. Anh em bảo vệ, hậu cần phải lặn xuống sâu một hai mét xôm móc tràm lục lên làm củi nấu ăn. Việc sinh hoạt, học tập vô cùng vất vả, nhưng không vì thế mà kém đi phần khí thế. Nhìn trời nước mênh mông như ở giữa biển khơi, căn cứ lại ở về phía trời tây so với thành phố, các đồng chí HSSV đặt cho căn cứ này cái tên là căn cứ “Đại Tây Dương”. Tên “Đại Tây Dương” đã đi vào lịch sử, phổ biến để chỉ vùng này. Lớp học mở được một tháng, các đồng chí cán bộ chủ chốt Hồ Hảo Hớn, Lê Minh Châu, Nguyễn Đông Hà, Phan Chánh Tâm, Lê Mỹ Lệ, Lê Hồng Tư, Lê đình Nguyên, Tăng Anh Dũng, Nguyễn Thị Mỹ Diệm, Nguyễn Thị Tràm… cũng đã về đây dự hội nghị do Khu ủy triển khai nghị quyết và bàn công tác tổ chức xây dựng lực lượng. Khi nước lũ rút đi, căn cứ trở nên khô ráo, sinh hoạt căn cứ trở lại tưng bừng náo nhiệt hồn nhiên của tuổi trẻ.

Do học viên và cán bộ của Cánh Học sinh - Sinh viên và của Khu ủy vào ra tấp nập, địch đánh hơi biết các cánh đô thị về hoạt động ở vùng này nên chúng chốt chặn các cửa khẩu ra vào bắt bớ nhiều người. Căn cứ bị bọn gián điệp lòn vào, nhưng ta kịp phát hiện túm cổ một tên giao về trên xử lý. Tháng 12/1961, địch mở cuộc càn quét lớn, nhảy dù xuống Giồng Vinh, Giồng Manh Manh đánh xuống gần căn cứ nhà in Trần Văn Ơn của Ban cán sự và bộ phận sinh viên ở xã Bình Hòa Bắc.

Tháng 8 năm 1961: Căn cứ Vườn Thơm (Bình Tân, Long An)

Tháng 8/1961, tại căn cứ Ban cán sự đóng ở Giồng Ông Hòa, trước ngày giặc càn, đồng chí Trần Quang Cơ hy sinh, đồng chí Tăng Anh Dũng - ủy viên Ban cán sự phụ trách cánh học sinh cử đồng chí Nguyễn Văn Lành (Tám Nghĩa) về Vườn Thơm (Bình Tân) để xây dựng căn cứ cánh học sinh, được huyện ủy Bình Tân tận tình giúp đỡ. Căn cứ đóng trên bờ kênh Năm Căn ấp 2 xã Bình Lợi tại nhà bà Sáu Pho, chị Hai Mươi M, sau triển khai thêmnhà má Hai (má đồng chí Năm Mây, sau này đồng chí Năm Mây được phát triển trở thành cán bộ căn cứ), nhà thím Năm ở ấp Gò Xoài xã Lê Minh Xuân bây giờ.

Căn cứ Vườn Thơm giáp rừng tràm Bà Vụ của huyện Bến Lức đất thấp không sử dụng hầm bí mật, nhưng địa bàn rộng, giặc càn thì vào rừng hoặc di chuyển né sang vùng khác, hoặc chém vè nếu cấp bách. Trước đây khoảng đầu tháng 4/1962 (trước Tết Nguyên đán) địch có lần “trực thăng vận” đánh điểm căn cứ huyện ủy Bình Tân nhưng thất bại vì trực thăng bị rớt. Từ đó đến mấy năm sau vùng này không có trận càn nào bằng trực thăng. Nhờ địa phương nhiệt tình giúp đỡ nên việc xây dựng cơ sở bàn đạp giao liên công khai, bảo vệ khá thuận lợi. Bàn đạp có thể bung ra nhiều ngã trên tỉnh lộ 10, Tân Bửu, Bến Lức. Riêng đội ngũ giao liên phát triển được 4, 5 người. Thông qua địa phương, đồng chí Lành còn phát triển được nhiều học sinh nông thôn tham gia cách mạng, sau này có nhiều đồng chí trở thành cán bộ ưu tú. Thông qua đội ngũ này ta còn phát triển được một số cơ sở cách mạng trong nội thành ở quận 6, Tân Tạo…

Từ tháng 3/1962, đồng chí Nguyễn Văn Ly được bổ sung vào Ban cán sự phụ trách cánh học sinh thay đồng chí Tăng Anh Dũng và về phụ trách căn cứ này. Căn cứ tồn tại cho đến năm 1964, tổ chức được nhiều lớp huấn luyện quy mô nhỏ từ 5 - 7 học viên, phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo phong trào học sinh trong nội thành, nhất là những lúc tình hình khẩn trương như phong trào Phật giáo, cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm ngày 01/11/1963. Đây là căn cứ địch chưa phát hiện nên không bị tập trung đánh phá. Khi cánh học sinh chuyển đi, biệt động thành và đơn vị quận 8 vẫn tiếp tục hoạt động tại khu vực căn cứ này.

Đầu năm 1962 đến 1964:

- Xã Phú Mỹ Hưng, xã Nhuận Đức, xã Phước Vĩnh An, xã Tân Phú Trung (Củ Chi)

- Ấp Phú Thứ, xã Phú An, Đình Bến Liễu, xã An Điền (Bến Cát - Bình Dương)

Cuối năm 1961, chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận bắt đầu hoạt động. Chiến tranh đặc biệt phát triển lên mức cao. Địa hình trống trải của các căn cứ vùng “Đại Tây Dương” sẽ rất nguy hiểm. Đầu năm 1962, theo sự chỉ đạo của Khu ủy, toàn bộ căn cứ thuộc vùng này được lệnh của Ban cán sự rút về lại Củ Chi để tránh tổn thất. Cơ quan Thường trực và Văn phòng của Ban cán sự, nhà in Trần Văn Ơn về đóng tại ấp Phú Bình. Cơ quan tuyên huấn đóng ở ấp Phú Lợi xã Phú Mỹ Hưng. Một cánh của học sinh và cánh quân sự xuống phía nam lộ 7 về ấp Bàu Lách, Bàu Chứa, Bàu Cạp Đức Hiệp xã Nhuận Đức. Một bộ phận cánh sinh viên qua tỉnh lộ 8 về bám lại Bà Giã, Cây Da xã Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung.

Bước vào năm 1962, địch đẩy mạnh thực hiện kế hoạch Staley-Taylor gom dân vào ấp chiến lược bằng các biện pháp phát xít như cào nhà, đốt nhà, ủi nhà, bỏ bom, bắn pháo, lùa dân. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống gom rất quyết liệt, đổ máu với tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời”, một số nơi đạt được thắng lợi như ở Bàu Mây, An Tịnh Trảng Bàng của Tây Ninh, Bến Cát của Bình Dương, Ấp Bắc Tiền Giang… Địch tổ chức các chiến dịch càn quét quy mô lớn, khai thác tối đa ưu thế chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận đánh phá vùng giải phóng phục vụ cho bình định gom dân như chiến dịch Bình Minh đánh vào 9 tỉnh miền đông quy mô sư đoàn, chiến dịch “Bình Tây” đánh vào miền Tây, chiến dịch Sao Mai đánh vào Long An, Đồng Tháp, Tây Ninh, chiến khu Dương Minh Châu, chiến dịch Thu Đông đánh vào chiến khu Đ. Mặc dù ta có đánh một số trận thắng lợi lớn, nhưng cách mạng đang đứng trước tình thế rất khó khăn: mất dân, lực lượng bị tổn thất, vùng giải phóng bị thu hẹp, đặc biệt là lúng túng trước tình hình gom dân, chưa có cách đối phó với ấp chiến lược, với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận của địch.

Tuy nhiên, ở Củ Chi và miền Đông, các chiến thuật lợi hại trên khó phát huy tác dụng hơn.

Các cơ quan căn cứ của HSSV trở về địa bàn Củ Chi, triển khai qua Bến Cát Bình Dương, giữ thế cơ động dọc hai bên bờ sông Sài Gòn có địa hình tốt, có địa đạo liên hoàn nhiều xã, nhân dân có truyền thống cách mạng, đấu tranh kiên quyết nên không gặp khó khăn tổn thất như ở đồng bằng miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Ở Bến Cát, cơ quan thường trực và văn phòng Ban cán sự cũng có căn cứ đóng ở ấp Phú Thứ xã Phú An và đình Bến Liễu (xã An Điền) trong các gia đình ông Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Thị Đôi, má Út. Các bộ phận tuyên huấn, học sinh, sinh viên… đóng dài tới ấp Phú Thuận dựa vào rừng cao su và rừng làng 123. Bàn đạp giao liên mở ra hướng ngã ba cầu Ông Cộ, ngã ba Bến Thế, ngã tư Sở Sao theo quốc lộ 13 từ Bình Dương về Sài Gòn. Đội ngũ giao liên công khai có các chị Nguyễn Thị Huê, Hồ Thị Hòa, Nguyễn Thị Giềng, Nguyễn Thị Nghi… người tại chỗ thông thạo từng đường đi nước bước.

Về phía Củ Chi, căn cứ thường trực và nhà in đóng tại ấp Phú Bình, Phú Mỹ Hưng ở trong nhà dân, dựa vào địa đạo rừng làng ở giữa Hố Bò Xóm Thuốc. Tại đây nhà in đã cho ra đời báo “Cờ giải phóng” của Ban cán sự, phát hành một khối tài liệu lớn in bằng chữ chì, có màu sắc. Cán bộ nhà in khá đông do đồng chí Phạm Thanh Liêm phụ trách cùng các đồng chí Trần Văn Tư (Bảy Phát), Hai Trung, Mười Hiệp, Út Tiêu… Căn cứ Ban Tuyên huấn do đồng chí Tăng Anh Dũng phụ trách đóng tại ấp Phú Lợi, Hố Bò xã Phú Mỹ Hưng, tại nhà má Bảy, má Chín, thím Hai. Đây là căn cứ có bề thế thường xuyên trên 10 người (có lúc 20 người), lực lượng viết báo, biên tập, chép tin phong phú. Căn cứ học sinh và quân sự về đóng ở Bàu Lách, Bàu Chứa, Bàu Cạp xã Nhuận Đức. Cánh sinh viên do các đồng chí Phạm Chánh Trực, Nguyễn Thị Loan Anh phụ trách cũng được tăng cường củng cố đóng ở Bà Giã, Cây Da xã Phước Vĩnh An. Bàn đạp ra Tân Phú Trung, Phú Hòa Đông.

Năm 1962, do ảnh hưởng của lần bể bạc lớn tháng 8/1961 (từ sự kiện đồng chí Trần Quang Cơ hy sinh, đồng chí Lê Quang Vịnh, Nguyễn Văn Dung bị bắt, địch lấy được một số tài liệu về HSSV ở đô thị như đã nêu) nên phong trào có lắng xuống. Ban cán sự chủ trương ra sức củng cố sắp xếp lại lực lượng, ngăn chặn ảnh hưởng bể bạc, phong trào hoạt động chủ yếu dưới hình thức bán công khai nội dung dân sinh dân chủ thiết thực. Về nội bộ, đồng chí Hồ Hảo Hớn, Nguyễn Thị Mỹ Diệm, Hoàng Thị Kim Dung được phân công đi học trường Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Nguyễn Hữu Nghĩa, Phạm Chánh Trực và nhiều cán bộ khác cũng được cử đi học các lớp chuyên môn của Trung ương Cục miền Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Ly và đồng chí Nguyễn Văn Ty (Hai Thu) được bố trí đi học lớp sơ cấp trường Đảng khóa I của Khu ủy mở tại Dương Minh Châu - Tây Ninh. Đồng chí Phan Chánh Tâm phụ trách cánh sinh viên. Đồng chí Lê Đảnh thay đồng chí Nguyễn Văn Lê phụ trách Chánh văn phòng Ban cán sự, đến giữa 1962, đồng chí Nguyễn Đông Hà thay thế. Các căn cứ lúc bấy giờ chủ yếu lo việc điều lắng cán bộ mở nhiều lớp học quy mô nhỏ cho cơ sở bên trong. Ban cán sự chủ trương lập nhiều đoàn cán bộ đi về các địa bàn nông thôn vừa xây dựng căn cứ vừa tìm kiếm học sinh có gia đình tốt ở địa phương, đi học các trường ở Sài Gòn, từ đó tiếp cận xây dựng cơ sở cách mạng. Đồng chí Nguyễn Văn Lê, Lê Công Long về huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang, đồng chí Nguyễn Văn Lành mở rộng phạm vi căn cứ Vườn Thơm vào khu vực Bà Vụ, Chợ Đệm…, đồng chí Lê Mỹ Lệ, Võ Ngọc An, Trần Văn Đông, Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Văn Sáu (Mười Cẩn), Trương Thanh Danh bám khu vực Phú Hòa Đông Củ Chi và Nam Bến Cát… Chủ trương này đã thu được kết quả khá tốt.

Bước vào năm 1963, có nhiều sự kiện chính trị lớn xảy ra. Tháng giêng, chiến thắng Ấp Bắc (Tiền Giang) đã làm cho chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận phá sản. Ấp Chiến lược đã có kinh nghiệm vận dụng phương pháp 3 mũi giáp công, trong nổi dậy, kết hợp với lực lượng võ trang bên ngoài diệt ác phá kềm nhổ đồn bót địch kết hợp với binh vận tải chỗ nhất là lực lượng tự vệ ấp, thanh niên chiến đấu, nên lần lượt bị phá vỡ, phá hỏng. Tháng 5/1963, Đại hội Hội Liên Hiệp HSSV Giải Phóng khu Sài Gòn Gia Định lần thứ nhất được tổ chức tại khu rừng làng 123 nối liền 3 xã An Điền, Phú An, An Tây huyện Bến Cát. Bản vẽ và thiết kế từ hội trường đến nhà ở cho đại biểu, nhà bếp, giao thông hào, công sự chiến đấu được kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và đồng chí Mười Hiệp học sinh trường Mỹ Thuật Gia Định phát thảo và chỉ đạo thực hiện. Các đồng chí Tư Tộc (Đặng Công Danh), Tám Hòa (Phạm Văn Thàng), Sáu Đông (Phan Văn Mùa), Út Tiêu (Lương Văn Bỉm), Út Thống, Bảy Phòng (Nguyễn Văn Tản), Hai Phước (Trần Văn Phước), Châu Long (Nguyễn Văn Lũy)… ngày đêm lao động khẩn trương để xây dựng hoàn thành sớm hơn quy định. Chỉ với vật liệu tre gỗ, nilông vải, một hội trường hoành tráng và trang nhã được dựng lên dưới tán cây rừng rợp bóng, có sức chứa vài trăm người, thật sự là một công trình hiếm thấy, làm phấn khích lòng người.

Trước Đại hội, Ban cán sự họp mở rộng. Đây là cuộc họp cuối cùng ở Phú Bình, xã Phú Mỹ Hưng, bàn việc thực hiện chỉ đạo của Khu ủy tổ chức đại hội và công tác tổ chức cán bộ bám trụ vào nội thành sẵn sàng chớp thời cơ đẩy phong trào đấu tranh chính trị lên cao khi có đảo chánh. Chuyện chớp thời cơ trở nên phổ biến công khai có sức hấp dẫn là câu chuyện mở đầu của mọi cán bộ chiến sĩ.

Đại hội Hội Liên hiệp HSSV giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định diễn ra ngày 24/3/1963 và kết thúc ngày 25/3/1963. Đồng chí Nguyễn Điền (Năm Hải) được bầu làm chủ tịch, Nguyễn Đông Hà (Ba Lam) là Phó chủ tịch, Lê Mỹ Lệ (Năm Trang) làm Tổng thư ký, Phạm Chánh Trực là Phó Tổng thư ký. Đồng chí Nguyễn Điền, một sinh viên trí thức, có vị trí lớn trong phong trào công khai đồng thời là một cán bộ ưu tú của cách mạng đã hy sinh trước đại hội vài hôm trên đường đi công tác bị địch phục kích, tuy nhiên chúng không hề biết, chỉ có Ban cán sự và vài đồng chí cán bộ biết thôi; ta không công bố trong thời gian này. Hôm bế mạc đại hội, các đại biểu được xem đoàn văn công khu biểu diễn với những tiết mục hoạt cảnh “Hò kéo pháo”, các bài hát “May áo”, “Xuân chiến khu” của Xuân Hồng, “Hướng về Sài Gòn” của Lê Thanh Văn phỏng theo thơ của Trường Thắng, bài thơ “Người em Nam Bộ” của nhà thơ Viễn Phương mà hầu hết các tác giả xuất thân từ người Sài Gòn, đã để lại trong lòng người xem một tình cảm đặc biệt khó quên. Đại hội có tiếng vang lớn đối với giới học sinh sinh viên và các tầng lớp nhân dân vùng đô thị.

Sau Đại hội, do nhu cầu của khu ủy, đồng chí Tăng Anh Dũng được tăng cường về Văn phòng khu. Khoảng tháng 6/1963, Ban cán sự và Văn phòng chuyển về đóng ở căn cứ An Điền Phú An Nam Bến Cát. Sau này có chuyển về Bàu Cạp, Nhuận Đức. Đồng chí Trần Hữu Phước (Tám Võ) từ nội thành về điều lắng, sau đó được phân công làm Chánh Văn phòng tại căn cứ này. Đây là căn cứ không lớn nhưng có rừng chồi, có địa đạo, đóng gần nhà má anh Phạm Văn Cội, anh em còn gọi là “căn cứ Ba Thảo”. Vì sau khi ra tù, đồng chí Nguyễn Thành Hiếu lấy tên Ba Thảo được phân công quản lý căn cứ này. Căn cứ sinh viên có triển khai thêm về xã Trung An Củ Chi và cánh học sinh phát triển căn cứ ở An Tây để đáp ứng cho yêu cầu huấn luyện, điều lắng. Các căn cứ này đều có địa đạo, bàn đạp, giao liên công khai và đóng trong nhà dân.

Tình hình chính trị ở Sài Gòn lúc này rất sôi động. Ngày 6/5/1963, trước lễ Phật Đản 2 ngày, phong trào Phật giáo bùng phát với lực lượng phật tử và các tầng lớp nhân dân Huế, Sài Gòn mít-tinh thuyết pháp, xuống đường lớn chưa từng thấy chống lại Diệm Nhu ra lệnh hạ cờ Phật giáo. Chính quyền Diệm hạ lệnh tiếp tục đàn áp phong trào bằng vũ lực. Ngày 11/6/1963, hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối. Nữ sinh Quách Thị Trang bị bắn chết và nhiều người khác bị thương trong cuộc biểu tình 5.000 HSSV tại chợ Bến Thành ngày 25/8/1963. Sau đó Ngô Đình Diệm ra lệnh giới nghiêm, cho lính dù, mật vụ võ trang tấn công vào các chùa và bắt hàng ngàn sư sãi. Máu đã đổ, hàng vạn phật tử, thanh niên, học sinh sinh viên và đồng bào Sài Gòn liên tục xuống đường phản đối đàn áp Phật giáo, đòi lật đổ chế độ độc tài phát xít gia đình trị Ngô Đình Diệm, khiến cho chính quyền Diệm Nhu bị cô lập khủng hoảng. Giọt nước đã làm tràn ly.

Tại căn cứ Củ Chi đồng chí Võ Văn Kiệt chủ trì hội nghị và chỉ đạo Ban cán sự cho cơ sở, cán bộ tấp vào phong trào Phật giáo và hướng khẩu hiệu đấu tranh tập trung vào chính quyền Diệm, đòi dân chủ hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đồng thời tạo điều kiện cho các đồng chí ở căn cứ khẩn trương vào nội thành đón thời cơ mới xuất hiện, chỉ để lại một bộ phận nhỏ giữ cứ và liên lạc chỉ đạo, báo cáo giữa trên và dưới. Đồng chí Phan Chánh Tâm, đang học rút về, cùng các đồng chí Hồ Hảo Hớn, Nguyễn Văn Ty (Hai Thu), Nguyễn Thị Tràm (Ba Võ), Nguyễn Văn Ly, Nguyễn Thị Mỹ Diệm, Trần Văn Bộ và các ủy viên khác của Ban cán sự đều có mặt trong nội thành trong những ngày sôi nổi này.

Mỹ cách chức đại sứ Nolting, Cabotlodge sang thay. Ngày 01/11/1963, Mỹ bật đèn xanh cho nhóm Dương Văn Minh làm đảo chính, Diệm Nhu bị giết chết, chế độ độc tài gia đình trị bị sụp đổ.

Ngày 02/11/1963 hơn nửa triệu thanh niên và đồng bào các giới tổ chức nhiều đoàn biểu tình đi qua nhiều đường phố với khẩu hiệu đánh đổ chế độ độc tài phát xít, thực hiện tự do dân chủ. Đoàn biểu tình tiến vào nhà quốc hội, Nha thông tin, Dinh Gia Long, đốt bót Lê Văn Keng, đập nát tượng Trần Lệ Xuân ở chợ Bến Thành. Ban cán sự chỉ đạo vận động quần chúng đấu tranh xóa mọi tàn tích chế độ Diệm Nhu vạch mặt tống cổ bọn Cần Lao Nhân Vị, mật vụ đội lốt giáo sư, giám thị trong các trường học. Các trường Pétrus Ký, Gia Long, Võ Trường Toản, Cao Thắng, Trưng Vương, Chu Văn An, Văn Lang… bầu Ban đại diện có cán bộ đoàn làm nòng cốt.

Bước vào năm 1964 và 6 tháng đầu năm 1965, tình hình tiếp tục ngày càng có nhiều thuận lợi đối với cách mạng. Tình hình chính trị của chính quyền Sài Gòn tiếp tục xấu đi, nội bộ rối rắm, Mỹ thay đổi liên tục các con bài tay sai, nhưng vẫn không thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Cuối cùng Mỹ chọn con bài Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ lập chính phủ quân sự tháng 6/1965 để phục vụ cho ý đồ chuyển hướng chiến lược chiến tranh cục bộ, trực tiếp đưa thực binh Mỹ vào xâm lược Việt Nam. Các chính phủ lên thay đều áp dụng chính sách đàn áp quyết liệt và đẫm máu phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đô thị, đặc biệt là học sinh sinh viên. Tuy nhiên, càng đàn áp thì phong trào càng dâng cao mở rộng tiến lên không ngừng. Các trận đánh của biệt động thành vào bọn Mỹ vang dội trong cả nước và thế giới làm nức lòng người, hỗ trợ đưa phong trào đấu tranh chính trị tiến lên, như các trận đánh vào khu vực Tân Sơn Nhất, rạp chiếu bóng Kinh Đô, đánh chìm chiếc tàu Card 15.000 tấn tại Cảng Sài Gòn, đặt mìn giết hụt Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara tại cầu Công Lý, trận đánh Khách sạn Brink, đánh Bộ chỉ huy Quân sự Mỹ Macv, đánh Tòa Đại sứ Mỹ… Đây là thời kỳ “bão tố cách mạng” cả chính trị và võ trang tấn công vào Mỹ ngụy ngay trong sào huyệt của chúng.

Lực lượng cách mạng trong học sinh sinh viên qua phong trào đã phát triển mạnh lên rất nhiều, đặc biệt là tiến lên chi phối xác lập được quyền lãnh đạo.

Bên ngoài, chiến thắng Bình Giã và Đồng Xoài đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân tổng trù bị cơ động của ngụy, ấp chiến lược bị phá rã hầu hết. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ ngụy đã thất bại hoàn toàn. Chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ, mở ra thời cơ chiến lược tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định.

Đầu năm 1964, theo yêu cầu phát triển của phong trào, Thường vụ Khu ủy điều đồng chí Phạm Trọng Danh (Mười Nhôm), Khu ủy viên sang nhận nhiệm vụ bí thư Ban cán sự. Đồng chí Hồ Hảo Hớn giữ nhiệm vụ Phó Bí thư.

Tháng 4/1964, đồng chí Nguyễn Văn Lê và đồng chí Mười Tươi được chỉ đạo về Mỹ Tho, xây dựng căn cứ cho cánh sinh viên tại xã Phước Thạnh huyện Châu Thành. Các đồng chí Hồ Hảo Hớn, Phạm Chánh Trực đã về đây sinh hoạt, hội họp. Ngày 20/8/1964, đồng chí Mười Tươi (Đỗ Văn Thận) bị địch phục kích, hy sinh tại đây.

Khoảng giữa năm 1964, Thường trực Ban cán sự rời Nhuận Đức dời về Phú Thứ, Phú Thuận xã Phú An (Nam Bến Cát, Bình Dương). Căn cứ sinh viên ở Trung An đóng tại nhà của má Út, nhà ông Sáu Ngô… cũng trong thời gian này giặc càn đánh hầm địa đạo, nên dời về An Thành Phú An gần căn cứ Thường trực lấy ký hiệu là S13. Căn cứ học sinh cũng dời về gần đó lấy ký hiệu là S11. Bàn đạp ra ngã Bến Thế, ngã tư Sở Sao hoặc về bàn đạp phía Củ Chi. Đến năm 1965, căn cứ Thường trực ở Phú An bị đánh điểm bằng máy bay Dakota thả dù, không có thiệt hại về người. Căn cứ sinh viên học sinh thường xuyên bị pháo bắn. Trước tình hình trên, khu ủy chỉ đạo triển khai thêm căn cứ ở Thanh Tuyền trong rừng Tà Leng giáp với Long Nguyên Bắc Bến Cát. Như vậy, các bộ phận thường trực văn phòng, sinh viên, học sinh đều lần lượt chuyển dần về căn cứ mới ở Tà Leng Thanh Tuyền. Ban Tuyên huấn vẫn ở Phú Lộc, Hố Bò nhà in ở Phú Bình xã Phú Mỹ Hưng.

Cánh võ trang do đồng chí Nguyễn Văn Ly phụ trách được thành lập tại căn cứ Vườn thơm. Đến năm 1964, cánh võ trang chuyển từ căn cứ Vườn Thơm sang xã Phước Vân, huyện Cần đước, Long An. Các đồng chí Ba Nhung (Phan Đình Hoạt), Út Thống, Năm Đức, Mười Minh về đây học quân sự và thực hiện kế hoạch chuyển vũ khí vào nội thành. Đầu năm 1965, Ban cán sự thành lập cánh Thanh niên - Công nhân lao động do đồng chí Mười Nhôm (Phạm Trọng Danh) làm trưởng ban, đồng chí Nguyễn Văn Ly được điều về làm phó ban, đồng chí Đỗ Hoàng Hải (Năm Khoa) Ủy viên Thường vụ. Cánh Võ trang rút về trên, giao căn cứ Phước Vân cho cánh Thanh niên Công nhân Lao động.

Ban Quân sự lúc này do đồng chí Lê Tấn Quốc (Tư Quốc) làm trưởng ban đóng tại Bàu Cạp, Nhuận Đức, sau chuyển về căn cứ Vườn Thơm Kinh Lý Văn Mạnh và về Phước Vân Cần Đước. Ban cán sự thành lập Ban An ninh võ trang do đồng chí Nguyễn Đông Hà phụ trách, căn cứ đóng ở Phú Thuận, xã Phú An, gồm các đồng chí Nguyễn Thành Công, Trần Văn Đông, Ngô Lộc Sơn (Mười Sơn), Trương Văn Hòn…

Năm 1963 đến năm 1966:

- Núi Thị Vải - Núi Dinh (Bà Rịa)

- Xã Phước Vân, xã Long Khê (Long An) - 1964 – 1968

Để đáp ứng nhu cầu huấn luyện điều lắng do lực lượng cách mạng, phần lớn là học sinh phát triển thông qua các phong trào đấu tranh sôi nổi của những năm 1963 - 1964, Ban cán sự chỉ đạo cánh học sinh là các đồng chí Phan Chánh Tâm, Nguyễn Văn Ly, Phan Văn Mùa (Sáu Đông), Đặng Quốc Hải (Chín Ngự) triển khai về núi Thị Vải, núi Dinh tỉnh Bà Rịa, cách Sài Gòn 100km để xây dựng căn cứ. Dì Sáu Nguyễn Thị Hòa về mở mũi và xây dựng bàn đạp, giao liên công khai, được tỉnh ủy, thị ủy, Ban Quân sự địa phương tận tình giúp đỡ. Căn cứ lúc đầu đóng ở Hắc Dịch, núi Thị Vải, sau thấy không thuận tiện nên chuyển về xây dựng căn cứ ở núi Dinh khoảng tháng 4/1964. Căncứ đóng trên núi cao qua khỏi chùa Hang Mai, có rừng cây phủ kín, suối mát trong lành. Chỗ dựa hợp pháp chủ yếu là các chùa đóng xung quanh, được các sư các ni tận tình giúp đỡ, cán bộ ra vào được nghi trang là khách thập phương đến cúng dường, vãn cảnh. Bàn đạp ra xã Long Phước, Long Tân, Long Điền, Hòa Long và Nam Hải thuộc huyện Long Đất, hay ra ngõ Đại Tùng Lâm có nhiều khách ra vào. Đội ngũ giao liên về đây và tại chỗ có đồng chí Mười Hồng (Nguyễn Thị Thanh), Lê Thị Bé Hai (Năm Phượng), Ngô Thị Cẩm Tiên, Trần Thị An, Nguyễn thị Son, Trần Thị Băng… xây dựng các gia đình làm bàn đạp như gia đình Trần Thị Ký, Trần Thị Thời, Trần Văn Thử… Những người đầu tiên về điều lắng là các đồng chí Hai Hồ (Võ Ngọc An), Tư Trung, Sáu Học, Châu Long, Tư Phước, Chín Sáng, Út Ròm, Sầm Thanh Liêm (Năm Thanh)… cả thảy có 17 người tham gia làm công tác bảo vệ, tiếp phẩm, cùng địa phương đi tải súng từ con tàu “không số” của miền Bắc theo đường Hồ Chí Minh trên biển vào, được Quân khu miền Đông tặng thưởng hai súng trường bá đỏ đầu tiên của Liên Xô viện trợ.

Việc đi tiếp phẩm phải tải hàng gần nửa ngày và trọn một đêm nhưng ai cũng thích đi vì là nơi mua hàng có tiệm quán. Đây là căn cứ lớn của Ban cán sự, địa bàn rộng rãi, cảnh trí đẹp, thơ mộng, không khí trong lành mát mẻ. Từ trên núi cao nhìn ra các phía thấy cả thị xã Bà Rịa, giàn Rađa Vũng Tàu, anh em đã có dịp chứng kiến được trận đánh lịch sử Bình Giã…

Trong những năm 1964, 1965, căn cứ đã mở ra nhiều lớp học đáp ứng được nhu cầu phong trào. Mỗi lớp có từ 20 đến trên 100 học viên gồm có đảng viên, đoàn viên, hội viên vừa phát triển. Các đồng chí Phạm Trọng Danh, Hồ Hảo Hớn, Lê Minh Châu, Phan Chánh Tâm, Nguyễn Văn Ly, Đặng Quốc Hải (Chín Ngự), Phạm Chánh Trực (Ba Thạch), Nguyễn Sơn Hà (Mười Cường)… thay nhau về đây giảng bài. Ngoài căn cứ núi Dinh, đoàn ủy học sinh phân công một bộ phận chuyển sang Nhơn Trạch, Đồng Nai xây dựng căn cứ, bàn đạp giao liên ở các xã Phước Hội, Phước Thiện. Cán bộ về làm việc, học tập, điều lắng đều ở tại nhà dân như gia đình bác Ngô Văn Thân, chú Bảy Châu, Hứa Văn Đăng và còn nhiều gia đình khác sẵn sàng giúp đỡ nơi ở. Bàn đạp xây dựng ở ấp Phú Mỹ, xã Phú Hội cũng dựa nhà dân.

Theo chủ trương chỉ đạo của Khu ủy và Ban cán sự triển khai thêm căn cứ các cánh về phía Tây Nam Sài Gòn để giảm mật độ căn cứ trên địa bàn miền Đông. Từ đầu năm 1965 cánh Thanh niên công nhân Lao động do đồng chí Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), đồng chí Nguyễn Văn Bình (Năm Trọng), đồng chí Nguyễn Văn Y (Mười Y, Út Thống), về xã Phước Vân, Long An, quê hương đồng chí Đỗ Đăng Đằng, nguyên học sinh trường Kiến Thiết, được Huyện ủy Cần Đước và Chi bộ xã nhiệt tình giúp đỡ. Cũng như ở các địa phương Củ Chi, Bến Cát, Đức Hòa… nhân dân địa phương cũng hết lòng đùm bọc bảo vệ và tham gia công tác cho đơn vị, chủ yếu làm giao liên, bàn đạp, đào hầm bí mật, bảo vệ… Phước Vân là xã đồng bằng nằm sâu cách lộ Đông Dương 4 cây số thông qua xã Phước Lý, địa hình đồng ruộng trống trải xen lẫn vườn tược, vuông tre và biền rạch dừa nước. Đặc biệt có đám mọc thành rừng rộng lớn, xen dày chạy dài theo con rạch, người địa phương gọi là “đám lá tối trời”, địa hình hiểm trở, nơi ẩn nấp của các lực lượng cách mạng khi cần. Xã được giải phóng từ năm 1963, phong trào cách mạng và đội du kích mạnh. Địch càn vào phải cấp tiểu đoàn trở lên. Nhân dân đi lại ra vào hợp pháp. Lúc đầu căn cứ đóng ở ấp 1, tại các gia đình anh Tư Nghệ, Ông Xã Bàn, Chị Ba Ở, Ông Năm Tiên, Má Hai Nghiêm, Ông Bảy Mù, Má Năm Tranh, Ông Ba Bớt… nhờ công tác dân vận, “địa phương vận” giỏi, các đồng chí triển khai sang ấp 2, nhà chú Tư Trấn… rồi sang ấp 4 xã Long Khê, tiếp giáp đóng ở nhà Má Năm Đồng, Má Hai Hương, sau này trở thành cán bộ đội Võ trang Nguyễn Văn Trỗi của cánh. Ở Long Khê, các đồng chí còn phát triển hàng chục gia đình khác, nhà Má Một (Nguyễn Thị Giáp) trở thành văn phòng thường trực của cánh, Má trở thành cán bộ của đội Võ trang chuyển tải vũ khí, tài liệu vào nội thành. Hầm bí mật được đào ngoài vườn, bụi tre, bờ rạch và có cả trong nhà dân được dân nghi trang bảo vệ khi giặc tràn tới. Bàn đạp giao liên của hai căn cứ Phước Vân, Long Khê cũng khá mạnh ra các ngã Gò Đen, Bình Chánh và nhiều ngã khác. Đội ngũ giao liên gồm Út Phượng, Út Hồng, Út Tuyết, Tư Hồng, Hai Danh, Năm Vân, Sáu Lang, Bé Hai, Bé Quyết, Bé Tiến, Bé Châu…

Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp tháng 9/1964 dự đoán thời cơ chiến lược giành thắng lợi quyết định khi chiến tranh đặc biệt của Mỹ thất bại, chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ, đã ra Nghị quyết chuẩn bị lực lượng nắm thời cơ. Thực hiện Nghị quyết, Trung ương Cục đã đề ra kế hoạch X theo hướng tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành chính quyền mà trọng điểm là địa bàn Sài Gòn - Gia Định.

Để chuẩn bị cho kế hoạch X tháng 4/1965, về phía thanh niên học sinh sinh viên, Khu ủy quyết định chỉnh đốn tổ chức, thành lập Khu Đoàn Đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng Việt Nam, Ban cán sự Thanh niên Học sinh Sinh viên chuyển thành Ban Chấp hành Khu Đoàn. Các cánh đều có tên gọi là Ban Chấp hành Đoàn cánh học sinh, Ban Chấp hành Đoàn Cánh Sinh viên, Ban Chấp hành Đoàn cánh Thanh niên công nhân lao động… Mỗi Ban Chấp hành đều có Ban Thường vụ, đồng thời cũng là Đảng ủy lãnh đạo. Đồng chí Phạm Trọng Danh (đổi bí danh là Mười Hải) làm bí thư, đồng chí Hồ Hảo Hớn (đổi bí danh là Hai Nghị) là phó bí thư. Đồng thời khu ủy cũng tăng cường một lực lượng cán bộ từ miền Bắc, từ Trung ương Cục về Khu Đoàn như đồng chí Nguyễn Tuấn Giao (Năm Giang) từ Trung ương Đoàn về tham gia trong Ban Thường vụ Khu đoàn phụ trách Thường trực, đồng chí Ba Tròn - Thường vụ phụ trách cánh thanh niên nông thôn, đồng chí Lê Thiết (Tư Kiếng), đồng chí Nguyễn Văn Xích (Ba Xích), anh hùng quân đội Phạm Văn Hai bổ sung vào Ban Chấp hành Khu đoàn phụ trách các cánh sinh viên, thanh niên công nhân lao động, quân sự. Các đồng chí tập kết từ miền Bắc trở về và 10 đồng chí là sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, hưởng ứng phong trào thanh niên Ba sẵn sàng vào Nam chiến đấu, cũng được Trung ương Đoàn cử về tăng cường cho Khu đoàn như các đồng chí Diệp Thanh Phong (Ba Phong), đồng chí Năm Cơ, đồng chí Hai Tưởng, đồng chí Sáu Ngọc, đồng chí Nguyễn Văn Sơn (Ba Sơn), Tô Văn Tươi, Ngô Lộc Sơn. Các đồng chí nói trên lần lượt được bố trí vào đô thị hoặc phân về các cánh làm công tác chuyên môn ở căn cứ trong khi chờ đợi thực hiện kế hoạch X. Cũng trong tháng 4/1964, tại căn cứ Tà Leng - Thanh Tuyền, Ban Thường vụ Khu Đoàn tổ chức hội nghị cán bộ mở rộng 100 đại biểu để quán triệt chủ trương Nghị quyết của Trung ương Cục thực hiện kế hoạch X. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, đồng chí Trần Bạch Đằng, đại diện Trung ương Cục đến thăm và quán triệt thêm về quyết tâm của Đảng tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh đặc biệt, trước khi Mỹ chuyển hướng chiến lược.

Tuy nhiên kế hoạch X chưa kịp triển khai thì Mỹ nhanh chóng đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam để cứu nguy cho Ngụy quân Ngụy quyền Sài Gòn.
 
PHẦN MỘT - Hoàn cảnh và chủ trương dẫn đến sự hình thành căn cứ Thành Đoàn


]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2012/9/15935/img758.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15931 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15931 CLB Truyền thống Lược sử căn cứ Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 giữa chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ Pháp về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, các lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) tập kết ra Bắc và các lực lượng vũ trang của Pháp và Chính phủ Bảo Đại ở phía Bắc tập kết vào miền Nam Việt Nam. Mon, 10 Sep 2012 09:02:03 +0700
Lược sử căn cứ Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

PHẦN MỘT - Hoàn cảnh và chủ trương dẫn đến sự hình thành căn cứ Thành Đoàn
 

Đồng chí Võ Văn Kiệt
trong kháng chiến chống Mỹ
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 giữa chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ Pháp về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, các lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở vào) tập kết ra Bắc và các lực lượng vũ trang của Pháp và Chính phủ Bảo Đại ở phía Bắc tập kết vào miền Nam Việt Nam. Đất nước bị chia đôi từ sông Bến Hải. Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định nhà đương cuộc 2 bên tạm thời quản lý 2 miền: Nam - Bắc, và có trách nhiệm cùng nhau hiệp thương để tiến tới tổng tuyển cử toàn quốc, lập ra một chính quyền Việt Nam thống nhất vào năm 1956.

Với mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã thay thế vai trò xâm lược của Pháp, đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng Chính phủ Miền Nam, tiến hành các trò truất phế Bảo Đại, nắm toàn bộ chính quyền miền Nam; thiết lập một quốc gia riêng với tên gọi Việt Nam Cộng hòa; tuyên bố chống Tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, dẹp tan các lực lượng vũ trang của giáo phái do Pháp lập ra từ trước, tuyên bố chống Cộng; ngay từ những tháng cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã công khai khủng bố những người kháng chiến chống Pháp; coi đó là đối tượng phải bị tiêu diệt về chính trị, hòng thiết lập vững chắc, lâu dài một chế độ thực dân kiểu mới với các chiêu bài dân chủ giả hiệu, quốc gia dân tộc giả hiệu…

Về phía ta, sau khi hoàn tất việc tập kết và chuyển quân theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chuyển giao việc quản lý hành chánh ở miền Nam Việt Nam - cho chính quyền Liên hiệp Pháp - Bảo Đại; Đảng Lao động Việt Nam ở miền Nam chuyển vào bí mật. Việc chuyển toàn bộ Đảng bộ miền Nam vào hoạt động bí mật là công việc to lớn và phức tạp; từ là tổ chức lãnh đạo toàn bộ công cuộc kháng chiến, hoạt động công khai trước quần chúng - nhưng nhờ sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân, cùng với kinh nghiệm hoạt động, công việc chuyển vào bí mật đã được hoàn tất thuận lợi, tổ chức của Đảng luôn giữ được xuyên suốt, đã hình thành cơ cấu mới ở toàn miền Nam.

Từ tình hình và nhiệm vụ mới, Trung ương Đảng giải thể Trung ương Cục miền Nam, lập lại Xứ ủy Nam Bộ. Và tháng 10/1955, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập mới Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, thay cho Đặc Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn thời chống Pháp.

Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn bắt đầu hoạt động, được tăng cường nhiều cán bộ trung kiên với năng lực và kinh nghiệm dày dặn được bố trí ở lại miền Nam. Các cán bộ này, bằng nhiều cách, nhiều mối quan hệ khác nhau, đã trở về Sài Gòn hoạt động. Trong thời gian này, các tổ chức cơ sở nội thành vẫn tồn tại bí mật hoạt động. Các cán bộ, đảng viên nói chung, về bám trụ, tự tạo “vỏ bọc”, tồn tại hợp pháp trong lòng địch, tạo giấy tờ tùy thân hợp pháp, xây dựng tác phong ăn ở, đi lại, nghề nghiệp phù hợp để che dấu hoạt động của mình. Quan hệ với nhau đều theo nguyên tắc hoạt động bí mật, phải nghi trang hợp lý. Các cuộc họp chi bộ, cấp ủy… đều diễn ra phần lớn tại chỗ ở nội thành, có khi một chỗ khác ở ngoại thành hoặc ở các tỉnh lân cận, dựa theo các mối gia đình thân quen, có khi do tổ chức giới thiệu. Công tác học tập chính trị, tùy theo yêu cầu, tình hình, khả năng cho phép mà bố trí, đảm bảo an toàn lúc đến, lúc đi cũng như lúc sinh hoạt bình thường. Nhiều trường hợp có yêu cầu cần thiết, ta cũng đồng ý một số cơ sở xây hầm bí mật cất dấu tài liệu hoặc để bảo vệ cán bộ khi gặp địch ruồng xét nguy cấp.

Hoạt động theo phương thức bí mật, trong tình hình đó bị hạn hẹp nhiều mặt. Nhiều trường hợp phải thu hẹp những yêu cầu hoạt động, tuy vậy, cán bộ ta phải sống và hoạt động trong tình thế hiểm nguy, nhất là khi giặc truy lùng ráo riết.

Dưới chính sách “tố cộng và diệt cộng” thâm độc và tàn bạo của Mỹ - Diệm, nhiều cơ sở cách mạng, nhiều cấp lãnh đạo Khu ủy đã bị lộ bể, bị bắt bớ, tra tấn, bị tù và bị giết chết.

Tổ chức Đảng trong học sinh, sinh viên tại Sài Gòn - Chợ Lớn là một bộ phận của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1955, tổ chức này đã trải qua nhiều hình thái: có lúc được bố trí chung với giới giáo chức, từ đầu năm 1958, lại được tách riêng ra, hình thành Liên chi ủy. Các tổ chức Đảng trong học sinh, sinh viên, nhìn chung đã góp phần tích cực và có hiệu quả vào cuộc vận động cách mạng trong giới, toàn diện các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Và cơ sở đó đã bám chặt phong trào quần chúng, dấy lên những cuộc đấu tranh đòi hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ (thời kỳ 1955 - 1958).

Với luật 10/59, Mỹ - Diệm truy lùng tổ chức và cán bộ ta đang hoạt động tại đô thị. Với bộ máy chính quyền to lớn, chúng đã đàn áp, bắt, bỏ tù và giết nhiều cán bộ của ta.

Về phía ta, với tinh thần bất khuất, kiên cường và mưu trí, quyết tâm bám sát cơ sở, bám sát quần chúng học sinh, sinh viên, thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình không bao giờ ngưng nghỉ. Nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng, đã chấp nhận hy sinh, chịu đựng tra tấn, tù đày.

Mãi đến năm 1958 trở về sau, phương thức hoạt động nhiều tổ chức hầu như phải sinh hoạt đơn tuyến, để tránh lộ bể, bảo vệ tổ chức.

Chế độ độc tài, khủng bố của Mỹ - Diệm đã tạo ra sự căm phẫn, bức xúc trong toàn bộ nhân dân miền Nam và tình hình đang mong chờ một sự đổi mới!

Nghị quyết lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 7/1959 ra đời đã đem đến cho Đảng bộ và nhân dân miền Nam một luồng sinh khí mới, làm bật dậy phong trào đồng khởi của cách mạng miền Nam! Nghị quyết nêu: “…Cách mạng Việt Nam ở miền Nam nói chung, không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa phong kiến từ trước tới nay, cho nên con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân”. Thế là các nơi nổi dậy phá rã ách kềm kẹp, diệt ác, phá tề, làm sụp đổ từng mảng lớn chính quyền Mỹ - Diệm ở nông thôn. Nhiều vùng giải phóng mở ra. Phong trào vũ trang nhân dân chống Mỹ - Diệm hình thành và phát triển mạnh mẽ, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ta ở nông thôn phát triển khắp nơi nơi.

Tình hình mới đã tác động mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân đô thị. Nhu cầu và khí thế cách mạng dần lên cao… Sự đòi hỏi khách quan về hoạt động của các tổ chức cách mạng cũng tăng lên theo yêu cầu của phong trào.

Tình thế cách mạng là như vậy, điều kiện cũng đã cho phép, vùng giải phóng hay vùng mà chính quyền Mỹ - Diệm mất khả năng kiểm soát, cũng đã xuất hiện rõ ràng, đặc biệt là các vùng từ Củ Chi, Trảng Bàng, Bến Cát… cũng đã mở ra ngày càng rộng và ổn định: tất cả đòi vũ trang giải phóng!

Từ thực tiễn hoạt động những năm trước và từ tình hình, nhiệm vụ mới đầu năm 1960, theo đề nghị của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, Xứ ủy quyết định nhập tỉnh Gia Định vào Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, thành lập mới Khu Sài Gòn - Gia Định. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định gồm có các đồng chí lãnh đạo hai cấp ủy trước, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư.
Từ bấy giờ, việc xây dựng căn cứ cách mạng là một đòi hỏi tất yếu thuộc đường lối chiến lược, được triển khai và đã định hình nhanh chóng.

Sau hai lớp học Rừng Già và Rừng Xanh dành cho cán bộ cốt cán của học sinh sinh viên, tháng 8/1960, Khu ủy chủ trương cho thành lập các căn cứ riêng trực thuộc Ban cán sự học sinh sinh viên, với sự giúp đỡ của các địa phương; Căn cứ Thành Đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ bắt đầu từ đó.

Căn cứ là hậu cứ của Ban cán sự học sinh sinh viên lúc bấy giờ, là nơi trú đóng của cơ quan Ban cán sự, cùng các tổ chức bộ máy cơ quan trực thuộc mà không thể trú đóng an toàn trong nội thành (lúc bây giờ và cả về sau, nội thành luôn là tiền phương; căn cứ địa, hậu cứ là ở nông thôn, rừng núi).

Với mối quan hệ này, việc chọn địa bàn xây dựng căn cứ thuận lợi, việc ra vào căn cứ an toàn luôn phải cân nhắc. Cuộc sống linh hoạt hàng ngày phải tin dựa vào dân. Các cơ quan lãnh đạo và chuyên môn thì trú đóng ở vùng trong, nơi phong trào vũ trang của nhân dân khá mạnh. Các tổ chức giao liên, bàn đạp cần phải thường xuyên hoạt động trong thế hợp pháp và phải uyển chuyển giữa hai vùng ta và địch. Căn cứ nào cũng phải gắn liền với nhiều “bàn đạp” khác nhau, ở nhiều hướng khác nhau, tùy nơi mà bố trí xây dựng.

Ngoài căn cứ chính, hệ thống căn cứ Thành Đoàn còn bao gồm nhiều căn cứ lớn nhỏ, nhằm giải quyết những nhiệm vụ riêng biệt, cục bộ và cũng phải phù hợp với tình hình phong trào cách mạng tại địa phương. Đồng thời, việc nào không thể giải quyết ở nội thành (vùng A), thì đưa ra giải quyết ở căn cứ (vùng B). Và tất cả nhiệm vụ ở căn cứ chủ yếu là để phục vụ tốt cho phong trào phát triển đô thị.

Căn cứ cách mạng Thành Đoàn đã thực hiện các lớp huấn luyện, đào tạo hàng ngàn lượt cán bộ phong trào, đảm bảo cho việc điều lắng hàng trăm lượt cán bộ bị lộ, được an toàn, để chỉ sau đó ít lâu trở lại đô thị tiếp tục chiến đấu, lãnh đạo phong trào.

Căn cứ Thành Đoàn luôn luôn được đưa vào trong sự chăm lo, giúp đỡ của các đảng bộ địa phương và rộng rãi nhân dân trong vùng trú đóng. Các Đảng bộ địa phương luôn coi đó là nhiệm vụ cách mạng được giao, nhân dân coi đó là tình thương, là trách nhiệm, đậm đà và cao quý. Cũng thông qua quá trình hoạt động ở vùng căn cứ, Thành Đoàn đã vận động, thu nhận được nhiều cán bộ từ phía các gia đình, sau này có nhiều đồng chí là cán bộ ưu tú của Đảng.

Căn cứ Thành Đoàn nằm trong hệ thống căn cứ cách mạng, luôn luôn được bố trí liên lạc thông suốt với Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, với hai hệ thống: hệ thống “đường dây giao liên hợp pháp” và hệ thống “đường dây giao liên vũ trang”.

Dưới áp lực của cuộc chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, căn cứ Thành Đoàn đã phải di chuyển và mở rộng ra ở nhiều tỉnh, từ Miền Đông, triển khai tới Miền Tây Nam Bộ, Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Đồng Tháp, Cần Thơ, … có lúc sang cả nước bạn Campuchia. Căn cứ Thành Đoàn luôn cơ động, đảm bảo nhiệm vụ chiến lược, đáp ứng kịp thời và hiệu quả các đòi hỏi của phong trào đô thị

Căn cứ Thành Đoàn là mục tiêu triệt phá, là nỗi nhức nhối của kẻ thù. Chúng bố trí thường xuyên mạng lưới chốt chặn, mật báo, gián điệp theo dõi các hoạt động ra vào của ta, đặt các trạm kiểm soát gắt gao trên các trục lộ, các cửa ngõ tiếp giáp, nơi chúng nghi ngờ hoặc phát hiện địa bàn căn cứ Thành Đoàn. Những trận càn quét lớn nhỏ diễn ra thường xuyên, nhiều trận ác liệt, đã gây cho ta những thiệt hại to lớn, nhiều cán bộ đã hy sinh, bị bắt, bị tra tấn dã man.

Cuộc chiến đấu ở vùng căn cứ Thành Đoàn do lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân đảm trách. Cán bộ, chiến sĩ căn cứ Thành Đoàn đã hòa nhập vào cuộc chiến đấu chung ấy, rất gian khổ song cũng rất vinh quang. Người chiến sĩ bảo vệ căn cứ, cán bộ đô thị đi vào căn cứ, du kích địa phương, bộ đội chủ lực, đã chiến đấu và đã hy sinh để duy trì sự liên tục của căn cứ Thành Đoàn.

Dù kẻ thù có thâm độc tới đâu, căn cứ Thành Đoàn trải qua những năm gian khổ đầy ác liệt hy sinh đã tồn tại và phát triển trong lòng cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc cho đến thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc chiến đấu này, nghĩa tình sâu nặng của nhân dân với cán bộ, chiến sĩ, quần chúng cách mạng của Thành Đoàn đã phát sinh, nảy nở, gắn bó keo sơn ngày càng bền chặt. Chính vì vậy mà trong bất cứ tình huống khó khăn, gian nan thử thách nào chúng ta cũng vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ.

Đến hơn 30 năm từ sau ngày giải phóng, Thành Đoàn, Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn cùng đông đảo cán bộ của các thời kỳ đã liên tục hàng năm vào ngày lễ Tết, tổ chức các đoàn cán bộ về hầu hết các vùng căn cứ kháng chiến cũ xưa để gặp lại, viếng thăm bà con nhân dân, Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể địa phương, các ba, các mẹ, anh chị em gia đình địa phương. Cũng tại các vùng đất thiêng này, nhiều công trình đền ơn đáp nghĩa được xây dựng hoàn thành.

Với cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ và ngày nay, nghĩa tình của các thời kỳ ấy phải được ghi lại trong tâm trí và trong truyền thống Đoàn, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào và công ơn ấy phải được đền đáp bằng tất cả tấm lòng, sống vì nước, vì dân của các thế hệ thanh niên thành phố Hồ Chí Minh.
 


]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2012/9/15931/img757.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15928 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15928 CLB Truyền thống Thành Đoàn Chúng tôi quyết định dùng lực lượng của Thành Đoàn yểm trợ cho các giới còn yếu và đặc biệt phân chia một số cốt cán đảm bảo xây dựng cơ sở các xí nghiệp, xóm lao động, đồng thời gấp rút tạo căn cứ ở nhiều hướng thuận lợi để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ lâu dài. Cho nên, ngày nay “dấu vết” của Thành Đoàn rải khắp Nam bộ: núi Thị Vải, Thiên Thai (Bà Rịa), Thạch Hưng (Cái Bè), cù lao đối diện chợ Sađéc, Thành Triệu (Bến Tre), ngoại vi Biên Hòa, Trà Vinh… Fri, 07 Sep 2012 15:25:24 +0700
Thành Đoàn

TRẦN BẠCH ĐẰNG
 
Hội nghị Thành Đoàn lần đầu họp tại căn cứ An Tây, Bến Cát. Tôi nhớ các cán bộ ngồi bên miệng hầm chống phi pháo - pháo Đồng Dù có “dàn nhạc Tân Tây Lan” gồm các khẩu pháo phản lực 175, tiếng “đề pa” nghe sau tiếng đầu đạn nổ pháo Bến Cát bắn lẻ, rất khó tránh - cạnh các chòi ni-lông, một số “ngăn cắt” quay lưng về phí đồng đội - những người không cần giấu mặt - hoặc nằm trên võng che khuất hoặc bịt mặt…

Căn cứ Thành Đoàn xập xệ hơn các căn cứ khác. Không có hậu cần, không có anh chị nuôi. Thức ăn kinh niên là đậu phộng trộn muối. Bởi vậy, mỗi lần sang làm việc với Thành Đoàn, văn phòng Khu ủy phải sửa soạn cho tôi một ít thịt kho, chai nước mắm, cá khô… để “bồi dưỡng” anh chị em. Và khi tiếng mô-tô chở tôi ngừng ngoài cổng căn cứ, tiếng hỏi nhao nhao: có gì “ưu điểm” không chú? Tôi nói thêm một chi tiết. Thành Đoàn không có bảo vệ bởi vì số cơ sở trong thành ra sinh hoạt, học tập tự nguyện làm bảo vệ. Họ say mê khẩu súng và suốt thời gian lưu lại căn cứ, họ không rời khẩu súng. Anh Chín Dũng gọi đùa đấy là “máu Thành Đoàn”.

Hội nghị lần này - quy mô lớn - nhằm xác định các vấn đề cơ bản về đường lối, phương châm, hình thức hoạt động của Đoàn Thanh niên trong thành phố. Trước đó, tuy phong trào thành phố đã lên khá cao, nhưng do các phe phái lèo lái, quần chúng tham gia phổ biến ở dạng tự phát. Đã đến lúc ta nâng cao hơn tác động trong phong trào và các tổ chức công khai, nửa công khai đang hình thành rộ lên khắp nơi. Bấy giờ, Mỹ đã ném bom miền Bắc, đổ quân ào ạt lên miền Nam. Hai tên chó săn phản động nhất của Mỹ là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ đã chia ghế, kẻ thì chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia, đứa thì Chủ tịch Ủy ban hành pháp. Chính Nguyễn Cao Kỳ ra lệnh xử bắn đồng chí Trần Văn Đang tại pháp trường cát, trước chợ Bến Thành. Thời cơ chuyển quyền lãnh đạo phong trào thành phố về tay Đảng đã chính muồi.

Anh Chín Dũng truyền đạt nghị quyết của Khu ủy cho hội nghị. Là người thay mặt Khu ủy phụ trách nội thành và trực tiếp phụ trách công tác thanh niên, tôi bàn bạc với anh em kế hoạch thực hiện cụ thể. Ý kiến rất sôi nổi. Ở đây tuy thời cơ chín mùi, nhưng thành bại của công việc còn tùy phương thức hành động của ta. Khu ủy đặt hy vọng vào cán bộ Đoàn và Đoàn viên, lực lượng trẻ, hăng hái, bám được nội thành. Nhưng chuyển hướng hoạt động trong một hoàn cảnh như vậy không đơn giản. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ kích động cơ sở dữ dội; ai cũng hăm hở dùng súng thanh toán kẻ thù. Phương thức thâm nhập sâu vào giới trẻ, sử dụng các tổ chức công khai và nửa công khai để tập hợp quần chúng và xây dựng lực lượng, chiếm cho bằng được các trung tâm thối động lớn như Tổng hội sinh viên, ban đại diện các trường, các tổ chức thanh niên Phật tử, liên kết với các thế lực chưa tán thành Mặt trận dân tộc giải phóng nhưng chống chiến tranh, chống chế độ độc tài phát xít… không phải là “sở trường” của cán bộ Thành Đoàn lúc bấy giờ. Chị Ba Võ - mang bầu sắp đẻ - nằng nặc đòi diệt các tên lính kín cầm đầu các tổ chức công khai như Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho. Thuyết phục chị thật vất vả! Anh Chín Dũng bảo tôi: Bà “bầu” này dữ thiệt!

Rồi thì mọi người cũng thông cả. Tại đây, Thành Đoàn nghị quyết thành lập các bộ phận trực thuộc: Đoàn ủy sinh viên do anh Phạm Chánh Trực làm Bí thư, Đoàn ủy học sinh do anh Ba Vạn, Đoàn ủy thanh niên công nhân lao động do anh Năm Khoa, Ban chỉ huy lực lượng vũ trang có anh Tám Thành (ngoài căn cứ) và anh Ba Cảnh (bên trong), Ban tuyên huấn và các bộ phận giúp việc khác. Các đồng chí bí thư Đoàn ủy cùng anh Mười Nhom và vài đồng chí nữa họp thành Ban Thường Vụ Thành Đoàn mà anh Mười là bí thư, trực tiếp phụ trách Mặt trận thanh niên và cánh “trí trẻ” - các sinh viên vừa mới tốt nghiệp.

Phải nói rằng sức bật của số cán bộ Thành Đoàn đặc biệt mạnh. Sau hội nghị, tin thắng lợi bay về dồn dập: giành được đa số phiếu ở Ban đại diện một loạt trường đại học, trung học, kỹ thuật, trên cơ sở đó giành Tổng hội sinh viên, trụ sở 4 Duy Tân, trụ sở đường Hồng Bàng, ký túc xá Minh Mạng, nắm hàng loạt báo các trường, xây dựng hàng loạt đội văn nghệ quần chúng và phát triển khá nhanh nòng cốt, cảm tình trong các hình thức thích hợp. Sự lãnh đạo của Đảng - tất nhiên còn cộng thêm nhiều yếu tố và lực lượng khác - thông qua Thành Đoàn mà xác lập ở nhiều mức độ khác nhau phong trào công khai thành phố, đè bẹp được bọn phản động và hạn chế được bọn cơ hội.

Cuối năm 1966, tôi gặp anh Mười Hải giữa nội thành. Chúng tôi quyết định dùng lực lượng của Thành Đoàn yểm trợ cho các giới còn yếu và đặc biệt phân chia một số cốt cán đảm bảo xây dựng cơ sở các xí nghiệp, xóm lao động, đồng thời gấp rút tạo căn cứ ở nhiều hướng thuận lợi để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ lâu dài. Cho nên, ngày nay “dấu vết” của Thành Đoàn rải khắp Nam bộ: núi Thị Vải, Thiên Thai (Bà Rịa), Thạch Hưng (Cái Bè), cù lao đối diện chợ Sađéc, Thành Triệu (Bến Tre), ngoại vi Biên Hòa, Trà Vinh…

T. B. Đ
]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2012/9/15928/TBDang.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15927 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/15927 CLB Truyền thống Nhớ về Thành Đoàn anh hùng Từ hôm nay, website Thành Đoàn trích đăng những bài viết, tư liệu về căn cứ Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định năm 1960 – 1975 để thế hệ trẻ nhớ về một thời chiến đấu anh hùng của các anh hùng liệt sĩ Thành Đoàn, tấm lòng của bà con vùng cứ chở che, yêu thương cán bộ kháng chiến,… và còn nhiều lắm những tình cảm, chia sẻ mà các cô chú trong Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn muốn gửi đến thế hệ trẻ qua những trang viết đầy tình cảm. Fri, 07 Sep 2012 15:06:53 +0700
 
Nhớ về Thành Đoàn anh hùng

Căn cứ địa là sản phẩm đồng thời là yếu tố không thể thiếu của cuộc kháng chiến chống lại ách đô hộ của quân xâm lược. Không có căn cứ địa, kháng chiến không thể tồn tại chứ nói gì đến thành công. Lịch sử cha ông đã từng là như vậy. Chín năm kháng chiến chống Pháp có chiến khu, thời chống Mỹ có vùng giải phóng nông thôn rừng núi làm căn cứ. Nhưng thời kháng Mỹ lại xuất hiện một hình thái mà cuộc kháng chiến trước chưa hề có. Đó là một loại căn cứ địa được coi là hậu phương của phong trào đấu tranh đô thị, có thể ở nơi nào đó trong vùng giải phóng, nhưng có mối quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng đô thị như mạch máu tuần hoàn.

Căn cứ đầu tiên của Đoàn Thanh niên khu Sài Gòn - Gia Định được hình thành khoảng tháng 8 năm 1960, ngay sau cuộc Đồng Khởi mở ra vùng giải phóng, tức ngay sau tiếng súng của cuộc kháng chiến chống Mỹ chính thức bắt đầu rất sớm, sau căn cứ khu ủy. Trước đó, phương thức đấu tranh chính trị đơn thuần kéo dài trong nhiều năm trong khi địch dùng bạo lực phát xít trấn áp đã đưa cách mạng đi vào tình thế hiểm nghèo, mất khả năng tiến công, tổn thất khắp nơi vô cùng to lớn. Tổ chức cách mạng và phong trào đấu tranh ở Sài Gòn bị địch đánh phá tan tác. Chúng coi như cách mạng ở Sài Gòn đã bị xóa sổ. Tổ chức Đoàn Thanh niên Sài Gòn - Gia Định đứng trước nguy cơ bị triệt phá, địch đang phăng tổ chức cách mạng trong các trường trung học và đại học. Đồng chí Bí thư Ban cán sự của Đoàn và một vài cán bộ chủ chốt đã bị bắt.

Nhưng căn cứ Đoàn Thanh niên đã kịp thời mở ra! Cán bộ phong trào được đưa về căn cứ vừa điều lắng vừa học tập, chuyển đổi công tác, xóa dấu địch truy tìm, liên tiếp hết đợt này đến đợt khác và lần lượt tung trở vào đô thị với tổ chức mới, phương thức hoạt động mới. Chỉ vài tháng sau bước vào đầu năm 1961, cùng với khí thế Đồng Khởi và sự kiện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, phong trào Thanh niên - Học sinh - Sinh viên (TNHSSV) được phát động bùng lên với tư thế tiến công mới. Truyền đơn cờ Mặt trận xuất hiện nhiều nơi, trong trường học, trong xóm, trong chợ... rồi biểu tình nhập thị, tấn công sĩ quan cao cấp và đại sứ Mỹ bằng lựu đạn… Căn cứ hoạt động càng nhộn nhịp - một điểm chưa đủ mà phát triển nhiều điểm, nhiều nơi khác - phong trào HSSV trong đô thị càng dâng cao khiến địch bất ngờ lúng túng. Phong trào lên cao, lực lượng cách mạng càng phát triển nhanh chóng, căn cứ Đoàn Thanh niên lại liên tục mở lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, cho người mới tham gia để trở về tiếp tục đẩy phong trào lên cao hơn, tập hợp phát triển lực lượng nhiều hơn và cứ thế… như bánh xe quay tròn đưa cách mạng tiến lên. Có căn cứ của mình, phong trào TNHSSV Sài Gòn không còn nguy cơ thoái trào mà chỉ có tiến công. Địch đánh phá, ta có thiệt hại, nhưng lực lượng cách mạng cứ phát triển ngày một rộng lớn. Theo sự chỉ đạo của Khu ủy, căn cứ đầu tiên ấy được thành lập do quyết định của 2 đồng chí Bí thư và Phó Bí thư Đoàn lúc bấy giờ - Anh Trần Quang Cơ (Tám Lượng) và anh Hồ Hảo Hớn (Ba Lực), người đã đặt bước chân đầu tiên đến khu rừng chồi ấp Bàu Kính xã Nhuận Đức - Củ Chi, chỉ cách Sài Gòn hơn 30km. Tuy chỉ tồn tại được 6 tháng nhưng nó làm được một số nhiệm vụ rất có ý nghĩa: không chỉ giúp cho phong trào và tổ chức cách mạng trong nội thành thoát khỏi nguy cơ bị địch triệt phá, mà còn làm cho phong trào khôi phục và phát triển mạnh lên, đồng thời mở ra khả năng phát triển vùng hậu phương có tính chiến lược cho phong trào cách mạng đô thị. Từ đây hàng loạt các căn cứ khác được mở ra, suốt quá trình cuộc kháng chiến vừa gắn với chỉ đạo của trên, vừa bám chặt phong trào trong đô thị với nhiều loại hình và chức năng đa dạng phục vụ đắc lực cho phong trào như: đảm bảo tốt sự chỉ đạo thông suất kịp thời, điều lắng cán bộ mở lớp huấn luyện, đào tạo, triển khai nghị quyết tích trữ kho tàng phương tiện, vũ khí đánh địch... trong bất cứ tình huống nào. Đó là một hệ thống các căn cứ gồm căn cứ trung tâm chỉ đạo, căn cứ các cánh sinh viên, học sinh, thanh niên công nhân lao động, lực lượng vũ trang, căn cứ chuyên huấn luyện, in ấn, điều lắng, căn cứ ở vùng sâu, căn cứ lõm ở vùng yếu, căn cứ mật ở vùng tạm chiến và trong đô thị, đáp ứng yêu cầu đa dạng của cách mạng. Gắn liền với căn cứ là một hệ thống bàn đạp giao liên dưới nhiều hình thức được nghi trang cẩn thận, giữ bí mật dù ở trong vùng giải phóng; bảo đảm các yêu cầu về đường đây chỉ đạo, đưa đón khách, chuyển tải thư từ, sách báo, phương tiện vũ khí vào nội thành. Thời đó, ta dùng từ “khách” cho gọn chỉ cán bộ từ trong đô thị ra cứ.

Tồn tại và phát triển suốt 15 năm kháng chiến chống Mỹ, nhìn lại quá trình lịch sử của mình, căn cứ Đoàn Thanh niên Sài Gòn - Gia Định quả là một công trình vô cùng đồ sộ và đáng tự hào! Không kể những lõm lẻ tẻ, chỉ tính số căn cứ có qui mô bề thế đủ các bộ phận bảo vệ, giao liên, bàn đạp... thì ngót đến trên 30, được rải đều từ rừng núi, nông thôn, đồng bằng, vùng biên giới và ngay cả trên đất bạn Kampuchia. Từ Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa đến Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Kiến Phong Cao Lãnh, An Giang Hồng Ngự, Ba Thu, Kratié, Tiphơlơn... Nhưng cho dù khoảng cách có xa hay gần trung tâm Sài Gòn, thông tin chỉ đạo hai chiều, đưa đón khách vẫn bảo đảm thông suốt chỉ nội trong ngày thôi.

Trong hàng loạt các căn cứ trải rộng trên nhiều vùng bao quanh đô thị Sài Gòn - Gia Định như thế, thì căn cứ miền Đông Nam Bộ - đặc biệt là Củ Chi, Bến Cát - trước sau vẫn là căn cứ mang tính chiến lược, cho dù có lúc địch đánh phá hủy diệt, phải chuyển đi trong suốt một thời gian dài. Bởi đây là vùng đặc biệt tiếp cận Sài Gòn, lại là vùng cao có rừng lớn với hệ thống địa đạo hàng trăm cây số, bảo vệ an toàn cho việc tập trung người lẫn phương tiện, làm hậu phương đắc lực cho đô thị. Căn cứ Núi Dinh - Bà Rịa, chỉ cách Sài Gòn hơn 2 giờ đi lại có rừng núi hang động che chở, có nhiều chùa chiền rộng, lối ra vào hợp pháp.

Nói là công trình đồ sộ, không theo cái nghĩa số lượng vật tư kiến trúc hay trang bị tối tân nào. Vài căn nhà lá nằm giữa rừng hay chen lẫn trong xóm đồng bào, có khi không phải tốn một đồng bạc để dựng lên. Trang bị chủ yếu chỉ vài chục thước nylon làm vách ngăn cắt vài chục cái võng mùng mền ba lô cho khách, thay cho giường tủ bàn ghế. Nhưng cái đồ sộ ở đây, bây giờ ngồi nghĩ lại, suy cho cùng mọi lẽ mới thấy hết, chứ thời đó, nó bình thường, bàng bạc như khí trời ta thở hàng ngày thôi! Đó là lòng dân! Vâng, tính chất đặc điểm lớn nhất căn cứ của ta là căn cứ lòng dân! Lòng dân là chất liệu của mọi chất liệu. Nói thì nghe trừu tượng nhưng nó lại rất cụ thể. Ta nhớ lại xem! Vừa bước chân vào vùng giải phóng, từ cô giao liên dẫn đường đến anh du kích trực gác ở cổng vào căn cứ, rồi cả người phục vụ, tất cả đều là dân địa phương tự nguyện tham gia làm nhiệm vụ kể cả đồng chí cán bộ chiến sĩ bảo vệ từ trong thành phố nhưng cũng là người dân ra đi làm cách mạng. Rồi đến các ba, các má, các em nhỏ trong xóm, trong nhà ta đang ở… đều thăm hỏi ân cần. Những giây phút ngỡ ngàng ban đầu nhanh chóng qua đi để nhường lại cho nghĩa tình ấm áp như người thân trong nhà dù trước đó họ chưa từng gặp mặt. Chưa hết, lúc giặc càn vào, lùng sục tìm nơi ta trú ẩn, chính những người dân bình thường đó đã che chở, tìm cách đánh lạc hướng giặc, đấu tranh không cho chúng lùng sục, hoặc thà chịu địch khảo tra chứ không hề tiết lộ điều gì của cách mạng. Địch đi rồi họ mới đến gần nơi ẩn trú báo yên để ta trở lên nhà. Địch đốt nhà bỏ bom, bắn pháo ngày đêm để dân phải rời khỏi cách mạng. Nhiều người vẫn cố chịu đựng bám trụ, người đi rồi cũng lên quay về thăm nom tiếp tế. Làm sao quên được câu nói vô cùng xót xa của mấy ba mấy má đã từng nuôi giấu chúng ta lúc trước: “Tao đi rồi, không biết tụi bay liệu sống sao đây!”

Từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, hàng mấy chục căn cứ mà ta gầy dựng lên có phải đều bằng thứ chất liệu này không, từ bảo vệ, giao liên, bàn đạp đến tiếp tế hậu cần, hệ thống che chở vòng trong vòng ngoài?

Có phải chính cái chất liệu đó, khi nhiều người trong chúng ta lần đầu bước đến căn cứ này, đã làm tan biến ngay lập tức những điều hoài nghi còn bám trong đầu về hình ảnh nhung con người “V.C gớm ghiếc và độc ác” mà địch đã từng gieo rắc bằng đủ mọi trò, phương tiện tâm lý chiến?

Có lẽ căn cứ Thành Đoàn là một trong những căn cứ được dân “cưng” nhiều nhất. Cứ nhìn vào con số gần 2.000 gia đình, các ba, các má, các anh em ở khắp các vùng căn cứ của Thành Đoàn đã từng nuôi chứa, giúp đỡ, bảo bọc, kể cả cho con em đầu quân, hoặc đích thân các ba các má... tham gia làm nhiệm vụ cách mạng ở căn cứ thì rõ! Cứ nhìn vào vẻ mặt tư lự xa xôi của các má, khi nghĩ về những đứa con trai, con gái, Thằng Ba, Thằng Tư, Con Năm, Con Tám... đi lâu cả năm trời nhưng không thấy về nữa! Có lẽ chúng đã hy sinh, hay đang nằm ở chuồng Cọp - Côn Đảo, Phú Lợi, Thủ Đức, Biên Hòa...
 
Lòng mẹ chắc phải xót xa lắm, nhưng nào dám hỏi ai (e rằng vi phạm điều bí mật của cách mạng chăng?). Thương chúng nó mới mười tám đôi mươi, đang tuổi ăn tuổi học mà phải chịu lìa xa gia đình cha mẹ để dấn thân vào nơi gian khổ hiểm nguy. Nhưng mà chúng nó chiến đấu cừ lắm! Nào biểu tình xuống đường ác chiến với cảnh sát, với lựu đạn cay, dùi cui, súng đạn, nào đốt xe Mỹ, chiếm tòa đại sứ Lonnol hàng chục ngày liền, những trận đánh diệt Mỹ, diệt ác vang dội ngay giữa sào huyệt địch. Cứ mỗi lần nghe HSSV xuống đường, hay Sài Gòn thắng lớn là vẻ mặt của các ba các má, bà con ngoài căn cứ hớn hở: Trong thành phố chúng nó có các ba các má phong trào. Ngoài căn cứ chúng cũng có hàng trăm hàng nghìn các ba các má nữa đây, sẵn sàng trợ lực hết mình!
Đã hơn 30 năm kể từ ngày giải phóng, các ba, các má lần lượt ra đi gần hết, mà các con vẫn hàng năm về thăm lại gia đình các ba các má năm xưa mong đền đáp phần nào cái ân tình sâu nặng ấy.

Bàn đạp giao liên, mạch máu tuần hoàn giữa căn cứ với tổ chức cách mạng trong đô thị, mười lăm năm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là một nét son trong lịch sử căn cứ của Thành Đoàn. Dù trong bất cứ tình huống nào vẫn luôn bảo đảm thông suốt kịp thời bảo vệ được bí mật chỉ đạo, bảo đảm đưa đón khách an toàn và đặc biệt là chuyển tải một khối lượng lớn các loại vũ khí vào nội thành từ chất nổ, mìn, lựu đạn, súng ngắn đến tiểu liên AK… đáp ứng được yêu cầu chiến đấu mà không bị địch phát hiện. Đội ngũ là những cô gái, những chị, những mẹ và các em thiếu nhi, hầu hết là những người dân địa phương trong vùng căn cứ, có khi là lính Sài Gòn nhưng là con em gia đình tốt.

Cứ nhìn vào hệ thống kiểm soát dày đặc trên các trục đường vào thành phố, với những tên cảnh sát, mật vụ lành nghề, những tên chiêu hồi ác ôn có nhiều kinh nghiệm hiểu biết với đầy đủ các loại trang bị phương tiện phát hiện hiện đại của Mỹ thì mới thấy hết tinh thần dũng cảm, tấm lòng trung kiên với cách mạng, quyết tâm vượt khó và sự thông minh tài trí của đội ngũ cán bộ chiến sĩ bàn đạp giao liên. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong suốt 15 năm là một thành tích vĩ đại, thật đáng nể phục.

Mỗi chuyến đi công tác của các đồng chí vào trong đô thị là một quá trình nghiên cứu, tính toán chi ly để đối phó với những tình huống bất trắc nguy hiểm đang chờ chực phía trước, thực chất là sự đấu trí với hệ thống an ninh của Mỹ Ngụy. Có những chuyến mà người đi không trở về, những bí mật cách mạng thì được giữ trọn mang theo. Có những chuyến đi gian nan nguy hiểm không lường, tưởng chừng như chuyến đi Kinh Kha khó mà quay lại, nhưng các mẹ, các chị vẫn dũng cảm quyết tâm vượt qua. Công bằng mà nói, những chiến công chính trị vũ trang trong thành phố, dù nhỏ dù lớn đều có công lao thầm lặng nhưng góp phần quan trọng của đội ngũ cán bộ chiến sĩ bàn đạp giao liên, nhưng mấy ai nghĩ đến sự thật cũng đậm chất anh hùng đó!

Giặc Mỹ và ngụy quyền tay sai gần như điên tiết vì cái căn cứ “quái ác” này của “bọn TNHSSV”. Từ nơi nào đó trong vùng căn cứ “ra lệnh”, thì y như rằng trong Sài Gòn bọn chúng bị ăn đòn, hết chính trị đến vũ trang, không xuống đường thì cũng diệt Mỹ diệt ngụy. Chúng tập trung mạng lưới tình báo, gián điệp tung vào vùng giải phóng để dò la, kết hợp với khai thác những người bị bắt. Khi phát hiện rồi, thì chúng tập trung lực lượng đánh phá, chí ít từ cấp tiểu đoàn trở lên. Đánh vào căn cứ là cả vấn đề... tổn thất. Đến nơi gọi là căn cứ thì chẳng thấy dấu vết nào của HSSV mà chỉ toàn đụng độ với bộ đội hoặc du kích. Năm thì mười họa vớ được thùng tài liệu huấn luyện “công tác đô thị”, còn ban lãnh đạo TNHSSV thì biệt tăm! Không phải địch không mò đúng căn cứ. Chúng mò đúng đấy và mò liên tục. Nơi nào có căn cứ của Thành Đoàn mà chính quyền cách mạng địa phương quen gọi là cánh I.4 là nơi đó địch càn nhiều nhất, bom đạn tập trung nhiều nhất. Ta cố che giấu, nhưng lâu ngày địch dò theo qui luật hoạt động đánh hơi phát hiện. Chính vì vậy mà Thành Đoàn phải xây cứ dời cứ liên tục. Đó là một trong những đặc điểm của cứ Thành Đoàn. Con số căn cứ lên đến hàng vài mươi cái cũng có lý do đó. Phải nói là những lúc phụ trách xây cứ chịu đựng gian khổ và hy sinh nhiều nhất. Nhưng đó cũng là những cán bộ chiến sĩ làm công tác dân vận, “địa phương vận”, đồng thời là những tay súng chiến đấu và phối hợp chiến đấu cừ khôi, để được địa phương ưu ái chấp nhận cho “cắm dùi” ở những địa điểm tốt nhất; chu toàn nhất. Cũng như ở chiến trường đô thị, các anh chị vùng căn cứ chiến đấu rất ngoan cường. Trận càn Cedar Fall đầu năm 1967, trên 30.000 quân Mỹ đánh vào khu gọi là “tam giác sắt”, đánh vào căn cứ của Sở chỉ huy quân khu, khu ủy và khu đoàn TNHSSV Sài Gòn - Gia Định. Địch sử dụng hàng trăm máy bay chiến đấu, cả B52, xe tăng, xe ủi đất, chó bẹc giê, hơi độc và đặc biệt là đội quân “chuột cống” để đánh phá hệ thống địa đạo, tìm diệt đầu não của cách mạng Sài Gòn.

Hơn 20 ngày đêm địch “lột vỏ trái đất” - mệnh danh và thực tế của trận càn - từ một vùng là rừng xanh, bỗng chốc biến thành vùng đất trơ trụi bị cày nát bởi những hố bom và xe ủi đất, xe tăng. Mấy chục con người tuổi trẻ TNHSSV bị vây hãm dưới lòng địa đạo chịu đói chịu khát, chiến đấu chống càn. Rồi cuối cùng vẫn phải chịu tổn thất. Mười mấy con người trên chiếc ghe định mệnh vượt sông Sài Gòn đã lọt vào ổ phục kích của lính Mỹ, khi sắp sửa cặp bê bên kia: Nguyễn Văn Hiếu (Ba Thảo), Nguyễn Văn Sáu (Mười Cẩn), Tư Thanh... chìm dưới dòng nước. Có hơn 20 đồng chí Thành Đoàn đã hy sinh trong trận càn, nhưng không người nào chịu hàng giặc. Trận càn Manhattan tiếp theo, địch nhào vô đánh phá căn cứ, lúc Bùi Minh Trực, một sinh viên trí thức vừa tham gia trận cướp tàu địch lịch sử, vượt Côn Đảo trở về, đã chiến đấu anh dũng, không chấp nhận đầu hàng và đã hy sinh sau khi bắn đến viên đạn cuối cùng, diệt được nhiều tên Mỹ tại vùng căn cứ Thanh Tuyền. Trường hợp đồng chí Trần Quang Cơ, chấp nhận hy sinh, hô khẩu hiệu trước họng súng của kẻ thù tại vùng căn cứ Đức Hòa - Long An tháng 8 năm 1961, sau khi cố dìu một nữ đồng chí bị thương không còn đủ sức vượt qua cánh đồng bưng mênh mông đầy nước và cỏ năng. Nhưng chúng không thể nào biết được chúng vừa bắn chết một cán bộ lãnh đạo cao nhất của Thành Đoàn đang chỉ đạo phong trào TNHSSV vùng lên ào ạt tấn công chúng tại Sài Gòn trong khí thế Đồng Khởi. Đồng chí Hồ Vãn Minh (Tám Thiên), một cán bộ học sinh vừa ra khỏi nhà tù đã tìm về đơn vị, chấp nhận hy sinh bắn đến viên đạn cuối cùng, dứt khoát không chấp nhận chiêu hồi của địch. Đồng chí Lê Văn Ninh (Ba Thoại), Ủy viên Thường vụ Thành Đoàn phụ trách cánh học sinh cùng đồng chí Trần Trung Tín (Sáu Trúc) chịu chết ngộp dưới hầm bí mật, chứ không chịu lên để giặc bắt. Còn nhiều và rất nhiều nữa những tấm gương hy sinh anh hùng tương tự, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh. Các đồng chí đã ra đi mang theo bí mật của vùng căn cứ. Địch càn qua rồi, nhưng chúng không thể nào biết được chúng vừa vào tận nơi đầu não chỉ đạo phong trào cách mạng của tuổi trẻ Sài Gòn từng uy hiếp chúng ngay giữa sào huyệt. Chúng cũng không thể nào biết được đã chạm trán với những con người mà ngày hôm qua họ từng chiến đấu chạm mặt chúng giữa các đường phố Sài Gòn.

Thật đáng trách, nếu ta không nhắc đến sự giúp đỡ đã trở thành ân tình sâu nặng của Đảng, mặt trận, đoàn thể các cấp, các đồng chí bộ đội, dân quân du kích địa phương, đặc biệt trực tiếp là xã, ấp đã hết lòng góp sức tạo điều kiện xây dựng căn cứ thuận tiện và an toàn nhất, cung cấp người ưu tú, kể cả cán bộ Đảng viên, lực lượng vũ trang cho công việc bảo vệ quản lý căn cứ, cung cấp người cho công tác bàn đạp giao liên, giữ gìn bí mật, phối hợp cùng chiến đấu bảo vệ mỗi khi địch càn quét đánh phá căn cứ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh. Phải khẳng định một điều, không có vùng giải phóng, không có địa phương, không có chiến tranh cách mạng của bộ đội dân quân du kích để giữ vững thành quả cách mạng thì không thể có căn cứ của Thành Đoàn chúng ta! Và những liệt sĩ của căn cứ Thành Đoàn ngoài những lúc trong đô thị phần lớn cũng là người địa phương: Ba Quyền, Năm Khởi, Tư Thanh, Tư Thắng, Út Nhất, Chín Sáng, Hồng Liên, Mười Nam, Bé Khanh, Phạm Thị Thu Vân (Bảy Thủy), Võ Thị Bua (Chín Phương)…

Mỗi trường hợp hy sinh đều rất thương tâm, người chìm dưới nước, người chết không toàn thây, giặc kéo lê xác đi để đến sình thối. Bé Khanh bị bom napan cháy như cây đuốc đang khi tắm, Bảy Thủy, Chín Phương ngã xuống trên đường dẫn bộ đội tiến vào thành phố trong trận Mậu Thân. Chị Vũ Thị Tiết (Mười Hai), y sĩ hy sinh cùng tất cả thương binh trong bệnh viện dã chiến do bọn biệt kích bất ngờ đánh điểm. Mộ chị cùng mộ các thương binh lại bị bom B52 vùi không còn dấu vết…

Mỗi trường hợp hy sinh là cái tang chung của Thành Đoàn, ngậm ngùi đau xót bởi mất mát cái thân thương yêu quí như ruột thịt, nhưng không ai chùn bước, không ai rời bỏ đội ngũ, mà ngược lại đau thương đã biến thành căm thù, thành sức mạnh tiến công giặc Mỹ, giặc Ngụy nhiều hơn nữa để trả thù cho đồng chí đồng đội. Có thể nói 15 năm lịch sử căn cứ của Thành Đoàn, cũng là khúc bi tráng kéo dài 15 năm, mà từ đó mỗi đồng chí đều rắn rỏi hơn trưởng thành hơn như “thép đã tôi”.

Nếu không kể hết được những trường hợp hy sinh như thế của các liệt sĩ Thành Đoàn, những nghĩa tình sâu nặng của Đảng bộ và nhân dân vùng căn cứ thì chúng ta, những thế hệ đang sống hôm nay không thể và không được quyền quên lãng…

Căn cứ Thành Đoàn, mái nhà che chở, bảo vệ tổ chức, cán bộ cách mạng ở thành phố khi gặp nguy hiểm, đồng thời cũng là mái ấm tình thương của đại gia đình TNHSSV cách mạng Sài Gòn.

Đang công tác trong lòng địch, có thư trên gọi về căn cứ, ai cũng phấn khởi sung sướng tràn trề: về lại căn cứ là về lại đại gia đình của những đứa con đi xa, nơi đó sẽ gặp lại bạn bè đồng chí, đồng đội, các ba, các má thân thương nói cười, tâm sự, hát ca thỏa thích bù lại những ngày công tác chiến đấu gian khổ, căng thẳng từng giờ từng phút trong lòng địch. Có khi gặp lại cả người mình yêu cho dù chưa một lần tỏ tình cũng đủ thấy hạnh phúc biết bao, huống hồ với những lứa đôi đã thành vợ chồng hay đã công khai tình yêu cho nhau. Nhưng điều phấn khởi lớn là được nghe trên phổ biến tình hình thắng lợi của cách mạng trên khắp mọi miền, nghe chỉ đạo phổ biến kế hoạch phân công vào trận mới, nhiệm vụ mới, hoặc được học tập triển khai Nghị quyết hay tham dự các lớp học đào tạo bồi dưỡng. Nào lúc A, lúc B chuẩn bị lên R học lớp sơ trung, trung cao chính trị, hay chuyển ngành. Nào đồng chí C được chuẩn bị kết nạp Đảng. Anh H, chị T sắp làm lễ tuyên hôn... Có vài đồng chí cũng hơi buồn vì điều lắng lâu dài chưa biết ngày nào trở vào chiến trường đô thị, vì anh, chị đã bị lộ rồi, phải chờ… thôi! Có người đến căn cứ như một chuyến tham quan, nhưng khi trở về thì trở thành người cách mạng vì ở đó họ đã nghe, đã chứng kiến và đã sống cùng với những con người tuổi trẻ yêu nước, mang lý tưởng hoài bão cao đẹp mà họ không thể không nhập cuộc. Có người từ căn cứ này trưởng thành là cán bộ lãnh đạo. Có người tại nơi đây gặp được bạn đời lý tưởng. Nhiều người khi bị địch bắt nhớ về căn cứ, nhớ đại gia đình TNHSSV nơi đây càng tăng thêm sức chiến đấu trong tù mong có ngày trở về đoàn tụ với niềm tự hào vẫn đứng trong đội ngũ. Nhiều người khi ra khỏi nhà tù chỉ mong sớm trở về căn cứ, trở lại đơn vị để tiếp nối con đường cách mạng của tuổi trẻ.

Những ngày sống ở căn cứ Thành Đoàn là những ngày hạnh phúc, một thứ hạnh phúc không yên bình, hạnh phúc trong gian khổ, trong chiến tranh ác liệt nhưng là những kỷ niệm sâu sắc không thể nào quên được trong đời đối với bất cứ ai, những TNHSSV đã từng một thời tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thời gian càng lùi xa thì lòng nhớ thương càng da diết!

Căn cứ Thành Đoàn của chúng ta anh hùng nghĩa tình là thế đấy! Mong rằng tuổi trẻ hôm nay kế thừa sự nghiệp của những người đi trước, các bạn đang tiến quân vào sự nghiệp cách mạng mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN, trên ba lô hành trang cần thiết của các bạn, chắc chắn sẽ có cái gia tài truyền thống lịch sử anh hùng đầy tự hào này.

Từ hôm nay, website Thành Đoàn trích đăng những bài viết, tư liệu về căn cứ Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định năm 1960 – 1975 để thế hệ trẻ nhớ về một thời chiến đấu anh hùng của các anh hùng liệt sĩ Thành Đoàn, tấm lòng của bà con vùng cứ chở che, yêu thương cán bộ kháng chiến,… và còn nhiều lắm những tình cảm, chia sẻ mà các cô chú trong Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn muốn gửi đến thế hệ trẻ qua những trang viết đầy tình cảm.
CLB TRUYỀN THỐNG THÀNH ĐOÀN

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/6885 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/6885 CLB Truyền thống CLB Truyền thống Thành Đoàn: Thăm gia đình liệt sĩ Thành Đoàn <p align="justify">Hướng đến kỷ niệm 61 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2008), Ban Thường vụ Thành Đoàn phối hợp với CLB Truyền thống Thành Đoàn đã tổ chức nhiều đợt về nguồn thăm các cứ điểm, mặt trận phong trào,… nơi đã từng che dấu cán bộ Thành Đoàn, các gia đình thương binh liệt sĩ.</p> Tue, 22 Jul 2008 17:00:01 +0700 CLB Truyền thống Thành Đoàn

CLB Truyền thống Thành Đoàn: Thăm gia đình liệt sĩ Thành Đoàn

 

Hướng đến kỷ niệm 61 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2008), Ban Thường vụ Thành Đoàn phối hợp với CLB Truyền thống Thành Đoàn đã tổ chức nhiều đợt về nguồn thăm các cứ điểm, mặt trận phong trào,… nơi đã từng che dấu cán bộ Thành Đoàn, các gia đình thương binh liệt sĩ.

 

Ngày 20/7/2008 vừa qua, đoàn của chú Nguyễn Văn Ngọc (chú Mười Tranh) - cựu cán Bộ Thành Đoàn và Ban Tư tưởng Văn hóa Thành Đoàn cùng năm bạn chiến sĩ Hoa Phượng Đỏ quận 1 đã đến thăm và trao quà cho các gia đình chính sách. Các cô chú lão thành cách mạng đã ôn lại những kỷ niệm một thời. Cô Huỳnh Quang Thư là vợ của liệt sỹ Lê Quang Lộc (bị phục kích và hy sinh trong chiến dịch Hồ Chí Minh 4/1975), kể về hoạt động đấu tranh công khai của mình xưa kia cô là 1 sinh viên công giáo giác ngộ lý tưởng cách mạng, khi Bác Hồ mất cô cùng các anh chị đã tổ chức làm lễ truy điệu Bác tại nhà thờ Nhà Thờ Đức Mẹ (đường Kỳ Đồng). Bác Lê Văn Hoàng tâm sự về sự hy sinh anh dũng của anh mình liệt sĩ Lê Văn Ninh (Ba Thoại), liệt sĩ Lê Văn Ninh đã hi sinh tại Hội Cư (Tiền Giang) chịu chết ngợp ở tuổi 27 (năm 1967) để địch không phát hiện nắm hầm căn cứ, cái chết của anh cùng hai đồng chí đã bảo vệ địa bàn và tránh sự càng quét của kẻ thù đem lại sự bình an cho các đồng chí còn lại.

 

LÊ THANH TUẤN

 

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2008/7/6885/tham gia dinh LS1.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/5696 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/5696 CLB Truyền thống Kế hoạch tổ chức gặp gỡ giữa cán bộ Thành Đoàn TP.Hồ Chí Minh thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhân dân vùng căn cứ Bến Tre nhân dịp kỷ niệm 40 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 Wed, 19 Dec 2007 18:01:11 +0700 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4462 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4462 CLB Truyền thống Quyết định v/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn Tue, 12 Jun 2007 16:56:10 +0700 ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

BCH TP. HỒ CHÍ MINH

------

SỐ 41/ QĐ-TV

TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2004

 

 

Quyết định

V/v Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động

của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn

 

- Căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường vụ Thành Đoàn;

- Theo đề nghị của Ban Tổ chức Thành Đoàn;

- Căn cứ kết luận của Ban Thường vụ Thành Đoàn tại Hội nghị ngày 05/8/2004;

 

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN TP. HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH

 

ĐIỀU 1: Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn.

 

ĐIỀU 2: Ban Tổ chức, Ban Tư tưởng - Văn hóa, Văn phòng Thành Đoàn, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn, các bộ phận và cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện Quy chế này.

 

ĐIỀU 3: Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

 

TM. BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN

Bí thư

(đã ký)

Võ Văn Thưởng

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4461 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4461 CLB Truyền thống Qui định tạm thời về việc thực hiện công tác chính sách của Thành Đoàn (Ban hành kèm theo Quyết định số: 42/QĐ-TV của Ban thường vụ Thành Đoàn ngày 25/8/2004) Tue, 12 Jun 2007 16:44:05 +0700 ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

BCH TP. HỒ CHÍ MINH

------

TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2004

 

Qui định tạm thời

về việc thực hiện công tác chính sách của Thành Đoàn

 (Ban hành kèm theo Quyết định số: 42/QĐ-TV của Ban thường vụ Thành Đoàn ngày 25/8/2004)

 

I. Những vấn đề chung

 

Điều 1: - Nguyên tắc chung :

 

- Công tác chính sách nhằm giáo dục đoàn viên thanh niên về truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng, của Thành Đoàn TNCS thành phố; là trách nhiệm của các cấp bộ Đoàn, của các thế hệ cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ.

 

- Công tác chính sách nhằm xác định trách nhiệm và thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của Đoàn viên thanh niên thành phố trong việc thực hiên công tác đền ơn đáp nghĩa; trong việc chăm lo, hỗ trợ… cho các gia đình, cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp cho phong trào Thành Đoàn các thời kỳ, đặc biệt là trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước.

 

- Việc thực hiện công tác chính sách phải đúng đốt tượng, thành phần, qui trình và thủ tục.

 

Điều 2: - Nội dung công tác chính sách :

 

1 - Tổ chức thăm các căn cứ Thành Đoàn thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ

 

2 - Thăm hỏi - tặng quà - giải quyết một phần khó khăn cho các diện chính sách Thành Đoàn.

 

3 - Tặng nhà tình nghĩa - tình thương và một số phương tiện khác.

 

4 - Tổ chức họp mặt truyền thống.

 

5 - Tổ chức, tham dự đám tang, đám giỗ, cải táng mộ liệt sĩ, thu thập và tìm kiếm thân nhân liệt sĩ Thành Đoàn.

 

6 - Tiếp tục rà soát công nhận; xác minh, xác nhận, các diện thương binh, liệt sĩ cá nhân, gia đình có công với cách mạng, cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ; đề xuất hưởng các chế độ chính sách, khen thưởng theo quy định của pháp luật và quy chế, quy định của cơ quan Thành Đoàn.

 

Điều 3: - Đối tượng chăm lo:

 

- Cán bộ Thành Đoàn thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ; thân nhân (cha mẹ ruột, vợ hoặc chồng, con hoặc người trực tiếp thờ cúng, nuôi dưỡng thương binh, liệt sĩ ) của cán bộ Thành Đoàn đã bị thương, hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (sau đây gọi là gia đình thương binh - liệt sĩ Thành Đoàn)

 

- Giao liên, bảo vệ, các cá nhân, gia đình là cơ sở cách mạng có công trong việc nuôi dưỡng, che giấu, giúp đỡ cán bộ Thành Đoàn trong thời kỳ khăng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

 

Điều 4: - Kinh phí thực hiện :

 

1- Kinh phí phục vụ cho công tác chính sách lấy từ nguồn Quĩ chính sách.

 

Quĩ chính sách thành Đoàn được thành lập từ :

 

- Nguồn kinh phí do cơ quan Thành Đoàn, các cơ sở Đoàn và đoàn viên thanh niên đóng góp.

 

- Vận động từ các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, các nhà hảo tâm.

 

- Các nguồn thu hợp pháp khác.

 

2- Việc vận động Quĩ chính sách.

 

Ban Tổ chức Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn phối hợp cùng các thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn tham mưu Ban Thường vụ Thành Đoàn kế hoạch, thủ tục phục vụ cho công tác vận động.

 

3- Việc quản lý Quĩ chính sách.

 

Nguyên tắc chung là công khai, rõ ràng và minh bạch.

 

- Thường trực Thành Đoàn trực tiếp quản lý việc thu - chi quĩ Chính sách thông qua bộ phận tài chính - Văn phòng Thành Đoàn và Ban tổ chức Thành Đoàn.

 

- Bộ phận tài chính - văn phòng Thành Đoàn chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi và thực hiện việc thu, chi, quyết toán... theo đúng quy định của nhà nước và của cơ quan Thành Đoàn; định kỳ (6 tháng, một năm) có trách nhiệm báo cáo thu - chi cho Thường trực, BTC Thành Đoàn, BCN Câu lạc bộ truyền thống; các đơn vị, bộ phận có liên quan và các cơ sở Đoàn có tham gia đóng góp xây dựng Quỹ.

 

4- Quy trình và thẩm quyền duyệt chi :

 

- Thường trực Thành Đoàn trực tiếp quản lý và duyệt chi Quĩ chính sách. Ủy quyền cho Trưởng ban Tổ chức Thành Đoàn được duyệt chi cho công tác chính sách mỗi lần không quá 200.000 đồng. Trường hợp chi hỗ trợ khó khăn, thăm hỏi đột xuất mỗi đối tượng chỉ được 01 lần trong năm.

 

- Tuỳ nội dung, hình thức, quy mô và mức độ chăm lo cụ thể cho các diện chính sách mà có quy trình thực hiện cụ thể. (phần II)

 

II. CHẾ ĐỘ THỰC HIỆN

 

Điều 5: - Thăm căn cứ Thành Đoàn thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ.

 

1 - Thời điểm thực hiện: Tổ chức vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm.

 

2 - Phân công thực hiện: Ban Tổ chức Thành Đoàn phối hợp với Văn phòng Thành Đoàn tham mưu cho Ban Thường vụ Thành Đoàn:

 

+ Kế hoạch tổ chức thực hiện; Kế hoạch vận động kinh phí.

 

+ Lịch trình - phân công cán bộ Thành Đoàn, cơ sở Đoàn và mời các đồng chí cựu cán bộ Thành Đoàn cùng tham gia công tác thăm căn cứ.

 

3 – Hình  thức thực hiện: Thăm hỏi và tặng quà.

 

4 - Định mức thực hiện: Từ 50.000 đồng - 100.000 đồng/ phần quà (tuỳ tình hình vận động kinh phí từng năm).

 

Điều 6: - Công tác thăm hỏi - tặng quà - hỗ trợ giải quyết khó khăn.

 

1- Thời điểm thực hiện: Tổ chức nhân ngày Thương binh - liệt sĩ 27/7 hàng năm. Ngoài ra, còn xem xét, hỗ trợ đột xuất cho các diện chính sách có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt.

 

2- Phân công thực hiện: Ban Tổ chức Thành Đoàn tham mưu Thường trực Thành Đoàn danh sách thăm hỏi, tặng quà các gia đình thương binh - liệt sĩ Thành Đoàn hàng năm và xem xét, giải quyết các trường hợp khó khăn đột xuất.

 

3- Hình thức thực hiện: Họp mặt, thăm hỏi và tặng quà.

 

4- Định mức thực hiện: Từ 100.000 đồng - 200.000 đồng/ trường hợp. Trường hợp đặc biệt có thể hơn tùy điều kiện, khả năng tài chính.

 

5- Quy trình thực hiện:

 

Căn cứ hồ sơ do Ban tổ chức quản lý và đề nghị của các đồng chí nguyên là cán bộ Thành Đoàn, Ban chủ nhiệm CLB truyền thống Thành Đoàn. Ban Tổ chức xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết trong phạm vi thẩm quyền hoặc tham mưu Thường trực Thành Đoàn tổ chức các đoàn thăm hỏi, họp mặt và tặng quà cho các diện nêu trên.

 

6- Các trường hợp đặc biệt:

 

+ Trường hợp các gia đình thương binh - liệt sĩ Thành Đoàn ở xa không tiện thăm hỏi hàng năm, Ban Tổ chức Thành Đoàn chủ động tham mưu Thường trực Thành Đoàn tổ chức thăm hỏi khi có điều kiện.

 

+ Trường hợp gia đình thương binh - liệt sĩ Thành Đoàn, gia đình có công gặp hoàn cảnh khó khăn cần hỗ trợ đột xuất, Ban Tổ chức Thành Đoàn đề xuất mức hỗ trợ cụ thể nhưng không quá 500.000 đồng/ trường hợp, mỗi trường hợp chỉ được hỗ trợ 01 lần/ năm. Trường hợp đặc biệt có thể hơn tùy khả năng tài chính.

 

Điều 7: - Công tác tặng nhà anh nghĩa - tình thương và các vật dụng khác (xe lăn, vật liệu xây đựng...):

 

1- Thời điểm thực hiện: Tổ chức thường xuyên, chú ý dịp kỷ niệm các ngày lễ hàng năm.

 

2- Phân công thực hiện: Ban Tổ chức Thành Đoàn và CLB truyền thống Thành Đoàn.

 

3- Hình thức thực hiện: Vận động hỗ trợ tiền, công hoặc vật dụng, phương tiện

 

4 - Định mức thực hiện:

 

+ Xây dựng nhà tình nghĩa: từ 18.000.000 đồng trở lên;

 

+ Xây dựng nhà tình thương: từ 6.000.000 đồng - 8.000.000 đồng.

 

+ Xe lăn, vật liệu xây dựng hay các phương tiện, vật dụng khác: Tuỳ điều kiện cụ thể.

 

5- Quy trình thực hiện:

 

Ban Tổ chức Thành Đoàn cùng BCN câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn lập danh sách cá nhân có nhu cầu, tổ chức tiền trạm - khảo sát tình hình thực tế; đề xuất vận động các đơn vị tài trợ; báo cáo kết quả cho Thường trực Thành Đoàn.

 

Điều 8: - Công tác họp mặt truyền thống.

 

1- Thời điểm thực hiện: Tổ chức nhân dịp cuối năm (23/12 âm lịch hàng năm) và dịp kỷ niệm những năm chẵn Ngày chiến thắng 30/4 và Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3 .

 

2 - Phân công thực hiện:

 

Ban Tổ chức, Văn phòng Thành Đoàn tham mưu Thường trực Thành Đoàn kế hoạch tổ chức và phân công, vận động các cá nhân, đơn vị phối hợp thực hiện.

 

Điều 9: - Công tác tổ chức, tham dự lễ tang.

 

1- Phân công thực hiện:

 

Ban Tổ chức Thành Đoàn cùng câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn đề xuất Thường trực Thành Đoàn công tác tham gia Ban Tổ chức Lễ tang.

 

Văn phòng Thành Đoàn phối hợp Ban Tổ chức phân công cán bộ cơ quan chuyên trách Thành Đoàn tham gia phục vụ công tác tổ chức Lễ tang.

 

2- Hình thực thực hiện: Tuỳ diện chính sách cụ thể mà có các hình thức sau

 

- Tham gia Ban tổ chức Lễ tang.

 

- Hỗ trợ thực hiện công tác Lễ tang.

 

- Cử Đoàn cán bộ tham gia Viếng.

 

3- Định mức thực hiện: 200.000 đồng/ trường hợp. Trường hợp đặc biệt có thể xem xét hỗ trợ thêm.

 

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

 

Điều 10:

 

- Ban Tổ chức Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn cùng Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn nắm bắt thông tin và tham mưu Thường trực Thành Đoàn các công tác liên quan đến chế độ chính sách.

 

- Cán bộ các Ban, Trung tâm, các đơn vị trực thuộc Thành Đoàn được phân công thực hiện công tác chính sách phải đảm bảo tiến độ, nội dung và báo cáo về Ban Tổ chức Thành Đoàn sau khi hoàn thành nhiệm vụ .

 

Điều 11: Thành lập bộ phận Thường trực thực hiện công tác chính sách Thành Đoàn gồm:

 

1. Đ/c Trưởng Ban Tổ chức Thành Đoàn.

 

2. Đ/c Phó Ban Tổ chức phụ trách công tác cán bộ - chính sách

 

3. Đ/c Phó Văn phòng phụ trách tài chính - quản trị.

 

4. Đ/c cán bộ Ban Tổ chức phụ trách công tác chính sách.

 

5. Các đồng chí Thường trực Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn

 

Bộ phận thường trực có trách nhiệm:

 

- Theo dõi, hướng dẫn, tổ chức, thực hiện và kiểm tra, nhắc nhỡ việc thực hiện công tác chính sách.

 

- Đề xuất Thường trực Thành Đoàn, Ban Thường vụ Thành Đoàn những nội dung sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế khi cần thiết.

 

            Ban Thường Vụ Thành Đoàn

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4460 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4460 CLB Truyền thống Quyết định v/v Ban hành Quy định tạm thời về việc thực hiện công tác chính sách của Thành Đoàn Tue, 12 Jun 2007 16:14:19 +0700 ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

BCH TP. HỒ CHÍ MINH

------

Số 42/QĐ-TV

TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2004

 

QUYẾT ĐỊNH

V/v Ban hành Quy định tạm thời

về việc thực hiện công tác chính sách của Thành Đoàn

 

- Căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường vụ Thành Đoàn;

- Theo đề nghị của Ban Tổ chức Thành Đoàn;

- Căn cứ kết luận của Ban Thường vụ Thành Đoàn tại Hội nghị ngày 05/8/2004;

 

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN TP. HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH

 

Điều 1: Ban hành kèm theo Quyết định này bản Quy định tạm thời về việc thực hiện công tác chính sách của Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh.

 

Điều 2: Ban Tổ chức, các Ban Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn, Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn, các bộ phận và cá nhân liên quan có trách nhiệm thực hiện Quy chế này.

 

Điều 3: Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

 

 

TM. BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN

Bí thư

(đã ký)

Võ Văn Thưởng

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4449 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4449 CLB Truyền thống Quyết định v/v công nhận Ban chủ nhiệm câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn Mon, 11 Jun 2007 15:23:43 +0700 ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

BCH TP. HỒ CHÍ MINH

------

Số 43/QĐ-TV

TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2004

 

QUYẾT ĐỊNH

V/v công nhận Ban chủ nhiệm

câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn

 

- Căn cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường vụ Thành Đoàn;

- Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính trị của cơ quan Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh;

- Theo đề nghị của Ban Tổ chức Thành Đoàn;

- Căn cứ kết luận của Ban Thường vụ Thành Đoàn tại Hội nghị ngày 5/8/2004.

 

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN TP. HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH

 

Điều 1: Công nhận Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn gồm các đồng chí có tên sau:

 

1. Đ/c Lê Thanh Hải (Mười Hải)

Chủ nhiệm

2. Đ/c Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm)

Phó Chủ nhiệm thường trực

3. Đ/c Phạm Chánh Trực (Năm Nghị)

Phó Chủ nhiệm

4. Đ/c Phạm Văn Công (Chín Trí)

Phó Chủ nhiệm

5. Đ/c Nguyễn Chơn Trung (Sáu Quang)

Phó Chủ nhiệm

6. Đ/c Ma Xuân Việt

Phó Chủ nhiệm

7. Đ/c Trần Phi Vân

Thành viên

8. Đ/c Trần Văn Nhiệm

Thành viên

9. Đ/c Phan Anh Điền

Thành viên

10. Đ/c Trần Thị Ngọc Hảo

Thành viên

11. Đ/c Đỗ Tiến Lực

Thành viên

12. Đ/c Ngô Tấn Quân

Thành viên

13. Đ/c Trương Minh Nhựt

Thành viên

14. Đ/c Huỳnh Công Khánh

Thành viên

15. Đ/c Đặng Phi Công

Thành viên

16. Đ/c Lương Thị Yến

Thành viên

17. Đ/c Huỳnh Thu Thảo

Thành viên

        

Điều 2: Phân công Thường trực Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn gồm các đồng chí có tên sau:

 

1. Đ/c Trương Mỹ Lệ

2. Đ/c Trần Phi Vân

3. Đ/c Đặng Phi Công

4. Đ/c Lương Thị Yến

5. Đ/c Huỳnh Thu Thảo

 

Điều 3: Ban chủ nhiệm và Thường trực Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy chế tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn.

 

Điều 4: Ban Tổ chức, Ban Tư tưởng Văn hóa, Văn phòng Thành Đoàn, các bộ phận liên quan và các đồng chí có tên trên chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

 

TM. BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN

Bí thư

(đã ký)

Võ Văn Thưởng

 

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4446 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/4446 CLB Truyền thống Qui chế tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh Mon, 11 Jun 2007 14:08:26 +0700 ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH  BCH TP HỒ

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH
BCH TP HỒ CHÍ MINH
--------

 

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 8 năm 2004

Qui chế
tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh

(Ban hành kèm theo Quyết định số : 41/QĐ-TV của Ban thường vụ Thành Đoàn ngày 25/8/2004)

CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1 : Tên gọi

Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh (từ sau đây gọi tắt là Câu lạc bộ truyền thống).

Điều 2 : Mục đích – Ý nghĩa hoạt động

Câu lạc bộ truyền thống được thành lập nhằm tập hợp các thế hệ cán bộ Đoàn thành phố; thông qua Câu lạc bộ tổ chức sinh hoạt tạo sự giao lưu – gắn bó, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hoạt động giữa các thế hệ cán bộ Đoàn; giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống Đảng, Đoàn, truyền thống Thành Đoàn các thời kỳ cho các thế hệ cán bộ Đoàn và đoàn viên, thanh niên thành phố; tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo, hỗ trợ … đối với các gia đình, cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp cho phong trào Thành Đoàn các thời kỳ, đặc biệt là trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, nhằm xác định trách nhiệm và thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của đoàn viên, thanh niên thành phố.

Điều 3 : Vị trí, vai trò.

Câu lạc bộ truyền thống là một tổ chức trực thuộc Thành Đoàn TP.Hồ Chí Minh (từ sau đây gọi tắt là Thành Đoàn), do Ban thường vụ Thành Đoàn quyết định thành lập, lãnh đạo và quản lý; có mối quan hệ phối hợp hoạt động với Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến thành phố.

Văn phòng làm việc của Câu lạc bộ đặt tại Trụ sở cơ quan Thành Đoàn.

CHƯƠNG II
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA CÂU LẠC BỘ TRUYỀN THỐNG

Điều 4 : Câu lạc bộ truyền thống có các chức năng và nhiệm vụ như sau:

1- Phối hợp và tham gia hỗ trợ Ban thường vụ, Thường trực Thành Đoàn, Ban tư tưởng văn hóa Thành Đoàn thực hiện công tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ cán bộ, đoàn viên thanh niên thành phố. Gồm các nội dung sau :

1.1- Tổ chức họp mặt, sinh hoạt truyền thống; biên tập, giới thiệu, tuyên truyền về Lịch sử Thành Đoàn từ thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước đến nay bằng các hình thức khác nhau như: Viết sách, truyện, sáng tác nhạc, phim v.v…

1.2- Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ truyền thống Thành Đoàn các thời kỳ.

1.3- Tham gia xây dựng, trùng tu, sửa chữa các di tích lịch sử, phòng truyền thống, bia, đền tưởng niệm; sưu tầm các hiện vật lịch sử của Thành Đoàn (nếu có) v.v… tại các căn cứ cũ, di tích lịch sử Thành Đoàn qua các thời kỳ.

1.4- Tham gia các hoạt động tuyên truyền giáo dục trong đoàn viên thanh niên thành phố.

2- Phối hợp và tham gia hỗ trợ Ban thường vụ, Thường trực Thành Đoàn, Ban tổ chức Thành Đoàn thực hiện công tác chính sách theo quy chế, quy định của Ban thường vụ Thành Đoàn. Gồm các nội dung sau :

2.1 - Thăm các căn cứ Thành Đoàn thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ.

2.2 - Thăm, tặng quà – giải quyết một phần khó khăn cho các diện chính sách Thành Đoàn.

2.3 - Tặng nhà tình nghĩa – tình thương và một số phương tiện khác.

2.4 - Tổ chức, tham dự đám tang, đám giỗ, cải táng mộ liệt sĩ, thu thập và tìm kiếm thân nhân liệt sĩ Thành Đoàn.

2.5- Tiếp tục rà soát công nhận (hoặc không công nhận); xác minh, xác nhận, các diện thương binh, liệt sĩ, gia đình có công cách mạng, cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ; đề xuất hưởng các chế độ chính sách, khen thưởng theo quy định của pháp luật và quy chế, quy định của cơ quan Thành Đoàn.

3- Tham gia góp ý, hỗ trợ cho Ban chấp hành, Ban Thường vụ Thành Đoàn về việc thực hiện những nội dung liên quan đến công tác thanh thiếu nhi; tham gia thực hiện các quy chế, quy định của Ban chấp hành, Ban thường vụ Thành Đoàn, của Câu lạc bộ truyền thống … có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, mục đích và ý nghĩa hoạt động của câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn.

Điều 5 : Nguyên tắc hoạt động.

- Tự nguyện, tự quản, dân chủ trong tổ chức và hoạt động.

- Việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn là trách nhiệm của hội viên, của các cấp bộ Đoàn, của đoàn viên, thanh niên thành phố và của các thế hệ cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ.

CHƯƠNG III
HỘI VIÊN

Điều 6 : Khái niệm, điều kiện và thủ tục kết nạp.

1- Hội viên Câu lạc bộ truyền thống là những cán bộ Thành Đoàn và các đơn vị trực thuộc Thành Đoàn các thời kỳ, còn đang công tác hoặc đã thôi công tác; giữ vững phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của Người cán bộ Đoàn; có tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, tích cực tham gia các hoạt động phong trào.

2- Điều kiện xét kết nạp hội viên.

- Cán bộ Thành Đoàn và các đơn vị trực thuộc Thành Đoàn các thời kỳ.

- Có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt.

- Tích cực tham gia thực hiện các hoạt động do Đoàn, Hội và Câu lạc bộ truyền thống phát động; có tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc;

3- Thủ tục kết nạp hội viên.

- Thực hiện Phiếu đăng ký tự nguyện tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ. (theo mẫu)

- Được ít nhất một hội viên Câu lạc bộ giới thiệu và bảo đảm (đối với các đ/c không có tên trong danh sách lưu).

- Được Tập thể Ban chủ nhiệm xét, đồng ý kết nạp với sự biểu quyết tán thành của quá nửa (1/2) số thành viên Ban chủ nhiệm.

Điều 7 : Hội phí.

Mỗi hội viên đóng góp 50.000 đ/ người / năm theo nguyên tắc tự nguyện, tuỳ hoàn cảnh của từng hội viên.

Điều 8 : Nhiệm vụ của hội viên.

- Tham gia thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Câu lạc bộ truyền thống theo sự phân công của Ban chủ nhiệm và các tiểu ban. Tích cực tham gia xây dựng câu lạc bộ và thực hiện công tác tuyên truyền, phát triển hội viên mới.

- Thực hiện tốt quy chế, quy định của Ban thường vụ Thành Đoàn có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Câu lạc bộ, và quy chế, quy định, nội quy của Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn.

- Gương mẫu chấp hành và vận động thanh thiếu nhi thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của nhà nước; chấp hành điều lệ, các nghị quyết của Đoàn; giáo dục, giúp đỡ thanh thiếu nhi rèn luyện và trưởng thành.

Điều 9 : Quyền của hội viên.

- Được yêu cầu tổ chức Đoàn, Câu lạc bộ truyền thống đại diện, bảo vệ và chăm lo quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình.

- Được ứng cử, đề cử và bầu cử Ban chủ nhiệm và các tiểu Ban của Câu lạc bộ truyền thống.

- Được thông tin, thảo luận, chất vấn, góp ý – phê bình, biểu quyết và đề nghị về các công việc của câu lạc bộ truyền thống.

Điều 10 : Xoá tên hội viên.

Hội viên không tham gia sinh hoạt, không tham gia các hoạt động của Câu lạc bộ mà không có lý do chính đáng hoặc có hoạt động gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đoàn, của Câu lạc bộ thì Ban chủ nhiệm xem xét, xóa tên trong danh sách hội viên.

CHƯƠNG IV
CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÂU LẠC BỘ

Điều 11 : Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống.

- Ban chủ nhiệm là cơ quan điều hành của Câu lạc bộ truyền thống, do Ban thường vụ Thành Đoàn ra quyết định công nhận trên cơ sở có sự thống nhất của các thành viên Ban chủ nhiệm (lâm thời hay đương nhiệm) và ý kiến đề cử của Ban tổ chức Thành Đoàn.

- Số lượng Ban chủ nhiệm từ 10 đến 20 đ/c.

- Ban chủ nhiệm có quy chế hoặc quy định về tổ chức và hoạt động riêng.

Điều 12 : Thường trực Ban chủ nhiệm.

- Thường trực Ban chủ nhiệm là cơ quan điều hành và xử lý thường trực giữa các kỳ họp của Ban chủ nhiệm, do Ban thường vụ Thành Đoàn ra quyết định phân công trên cơ sở có sự thống nhất và đề cử của các thành viên Ban chủ nhiệm và ý kiến đồng ý của Ban tổ chức Thành Đoàn.

- Số lượng Thường trực Ban chủ nhiệm không quá 1/3 số lượng Ban chủ nhiệm.

Điều 13 : Nhiệm vụ của Thường trực Ban chủ nhiệm.

Thường trực Ban chủ nhiệm có trách nhiệm thay mặt Ban chủ nhiệm tham gia tổ chức, thực hiện các chức năng - nhiệm vụ nêu tại điều 4 – chương II, báo cáo kết quả cho Ban chủ nhiệm trong các phiên họp định kỳ. Các nội dung quan trọng, nếu xét thấy cần thiết, theo đề nghị của Thường trực Thành Đoàn, Ban tổ chức Thành Đoàn hoặc Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống thì xin ý kiến của tập thể Ban chủ nhiệm hoặc toàn thể Câu lạc bộ truyền thống.

Điều 14 : Các Tiểu Ban trực thuộc Câu lạc bộ truyền thống.

- Câu lạc bộ truyền thống có 5 Tiểu ban cụ thể như sau :

1- Tiểu Ban Lịch sử – Truyền thống – Giáo dục thế hệ trẻ.

2- Tiểu Ban Chính sách.

3- Tiểu Ban văn hóa – văn nghệ truyền thống.

4- Tiểu Ban hoạt động tài chính và xây dựng cơ sở vật chất.

5- Văn phòng liên lạc.

- Mỗi Tiểu Ban (hay Văn phòng liên lạc) có Trưởng Tiểu Ban, từ 1 – 4 Phó Tiểu Ban và số lượng thành viên không hạn chế tùy theo yêu cầu công việc và tình hình thực tế.

Điều 15 : Nhiệm vụ của các Tiểu Ban.

- Các Tiểu Ban có nhiệm vụ thực hiện các công việc do Ban chủ nhiệm, Thường trực Ban chủ nhiệm phân công theo chức năng – nhiệm vụ của Câu lạc bộ, của từng tiểu ban.

- Phối hợp với các bộ phận có liên quan thực hiện các nội dung, công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
Điều 16 : Chế độ hội họp – sinh hoạt

- Câu lạc bộ Họp hội nghị toàn thể hàng năm ít nhất một lần.

- Ban chủ nhiệm họp đình kỳ 3 tháng / lần và họp đột xuất khi có yêu cầu.

- Thường trực Ban chủ nhiệm họp đình kỳ 2 – 3 lần / tháng và họp đột xuất khi có yêu cầu.

CHƯƠNG V
TÀI CHÍNH CỦA CÂU LẠC BỘ

Điều 17 :

1- Kinh phí phục vụ cho hoạt động của câu lạc bộ lấy từ nguồn Hội phí do hội viên đóng góp; Quĩ chính sách; ngân sách do cơ quan Thành Đoàn hỗ trợ.

Quĩ chính sách Thành Đoàn được thành lập tư:

- Nguồn kinh phí do cơ quan Thành Đoàn, các cơ sở Đoàn và đoàn viên thanh niên đóng góp.

- Vận động từ các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, các nhà hảo tâm.

- Hội viên tự nguyện đóng góp.

- Các nguồn thu hợp pháp khác.

2- Việc vận động Quĩ chính sách.

Ban Tổ chức Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn phối hợp cùng các thành viên Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn tham mưu Ban Thường vụ Thành Đoàn kế hoạch, thủ tục phục vụ cho công tác vận động.

3- Việc quản lý Quĩ chính sách.

Nguyên tắc chung là công khai, rõ ràng và minh bạch.

- Thường trực Thành Đoàn trực tiếp quản lý việc thu - chi Quĩ chính sách thông qua bộ phận tài chính - Văn phòng Thành Đoàn và Ban tổ chức Thành Đoàn.

- Bộ phận tài chính – văn phòng Thành Đoàn chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi và thực hiện việc thu, chi, quyết toán… theo đúng quy định của nhà nước và của cơ quan Thành Đoàn; định kỳ (6 tháng, một năm) có trách nhiệm báo cáo thu – chi cho Thường trực , BTC Thành Đoàn, BCN Câu lạc bộ truyền thống; các đơn vị, bộ phận có liên quan và các cơ sở Đoàn có tham gia đóng góp xây dựng Quỹ.

CHƯƠNG VI
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 18 :

- Ban Tổ chức Thành Đoàn, Ban tư tưởng văn hóa Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn cùng Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn nắm bắt thông tin và tham mưu Ban thường vụ, Thường trực Thành Đoàn các nội dung hoạt động liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của câu lạc bộ.

- Các cấp bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên thành phố; cán bộ các Ban, Trung tâm, các đơn vị trực thuộc Thành Đoàn được phân công thực hiện công tác liên quan đến chức năng – nhiệm vụ của câu lạc bộ phải đảm bảo tiến độ, nội dung và báo cáo về Ban Tổ chức Thành Đoàn sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Điều 19 :

Ban Tổ chức Thành Đoàn, Ban tư tưởng văn hóa Thành Đoàn, Văn phòng Thành Đoàn cùng Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn theo dõi, hướng dẫn, tổ chức, thực hiện và kiểm tra, nhắc nhở việc thực hiện quy chế này đồng thời đề xuất Thường trực Thành Đoàn, Ban Thường vụ Thành Đoàn những nội dung sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế khi cần thiết.

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/3392 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/3392 CLB Truyền thống Truyền thêm lửa cho lớp cán bộ trẻ Chiều ngày 10/02/2007, hơn 700 đại biểu đã tham gia buổi họp mặt cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ. Trong không khí mùa xuân đang tràn ngập mọi nẻo đường, các ba má phong trào, các cô chú cách mạng lão thành và đông đảo cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ đã có buổi giao lưu ấm áp, tràn đầy khí thế hào hùng... Tue, 13 Feb 2007 12:12:17 +0700 Truyền thêm lửa cho lớp cán bộ t

Truyền thêm lửa cho lớp cán bộ trẻ

Chiều ngày 10/02/2007, hơn 700 đại biểu đã tham gia buổi họp mặt cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ. Trong không khí mùa xuân đang tràn ngập mọi nẻo đường, các ba má phong trào, các cô chú cách mạng lão thành và đông đảo cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ đã có buổi giao lưu ấm áp, tràn đầy khí thế hào hùng của một thời sôi nổi của thế hệ một thời xả thân cho hòa bình độc lập, hòa quyện với sức trẻ của thời kỳ đổi mới và hội nhập hôm nay.

Cùng với những cái bắt tay thắm tình đồng đội, những cuộc trò chuyện rôm rả là những kinh nghiệm, đòi hỏi của các anh chị lớp trước dành cho lớp cán bộ trẻ. Một chương trình văn nghệ gồm nhiều tiết mục do các anh chị cựu cán bộ Thành Đoàn, các bạn cán bộ trẻ Thành Đoàn dàn dựng và biểu diễn đã khắc họa lại một thời hào hùng của các thế hệ Thành Đoàn hôm qua, nét sôi nổi trẻ trung của thế hệ Thành Đoàn hôm nay, và trên hết là sợi dây nối kết thế hệ, kế tục truyền thống như một dòng sông chảy mãi không ngừng.

Tại buổi họp mặt, anh Võ Văn Thưởng – Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thứ Thứ nhất Trung ương Đoàn đã trao bằng khen của Trung ương Đoàn cho đồng chí Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm) – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Truyền Thống Thành Đoàn, và đồng chí Trần Phi Vân Thành viên Câu lạc bộ, về những thành tích và nổi bật của 2 đồng chí trong năm 2006.

Các ba má phong trào, các cô chú cách mạng lão thành đến tham dự buổi họp mặt
Anh Võ Văn Thưởng trao bằng khen Trung ương Đoàn cho đ/c Trương Mỹ Lệ
Tốp ca đoàn viên cơ quan Thành Đoàn Tiết mục "Tiếng trống hào hùng" của anh chị CLB Truyền thống
và đây là ca múa "Tự nguyện" của CLB Truyền thống Liên khúc do các đ/c cựu cán bộ Thành Đoàn biểu diễn
Tốp ca "Mùa xuân trên Tp.Hồ Chí Minh" do CLB Truyền thống biểu diễn

T.M - N.U.
 

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2007/2/3392/DSC01691.JPG 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/2698 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/2698 CLB Truyền thống Lịch thăm căn cứ Thành Đoàn Xuân Đinh Hợi năm 2007 (có thay đổi) Thu, 30 Nov 2006 10:35:51 +0700 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/2697 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/2697 CLB Truyền thống Thông báo v/v thay đổi lịch thăm căn cứ Thành Đoàn Xuân Đinh Hợi 2007 Thu, 30 Nov 2006 10:33:25 +0700 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/36831 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/36831 THU HƯƠNG CLB Truyền thống Họp mặt truyền thống Thành Đoàn Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh và Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn tổ chức họp mặt cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ lúc 17 giờ ngày 2-2 (nhằm ngày 23 tháng Chạp), tại sân 4A Nhà Văn hóa Thanh niên (số 4A, đường Phạm Ngọc Thạch, phường Bến Nghé, Quận 1). Sat, 27 Jan 2024 12:13:43 +0700

Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh và Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn tổ chức họp mặt cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ vào lúc 17 giờ, thứ 6, ngày 2-2 (nhằm ngày 23 tháng Chạp), tại sân 4A Nhà Văn hóa Thanh niên (số 4A, đường Phạm Ngọc Thạch, phường Bến Nghé, Quận 1).

Thông báo thay thư mời và trân trọng kính mời cán bộ Thành Đoàn các thời kỳ về tham dự.

Để đảm bảo việc tổ chức chương trình, vui lòng báo thông tin và xác nhận tham gia với anh Nguyễn Văn Hoàng - phó trưởng Ban Tổ chức - Kiểm tra Thành Đoàn (SĐT: 0768.967.172); hoặc chị Nguyễn Thị Danh - cán bộ Ban Tổ chức - Kiểm tra Thành Đoàn (SĐT: 0908.555.572).

NĐ: T.HƯƠNG

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2024/1/36831/TTTD1.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/35272 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/35272 CLB Truyền thống Đồng chí Mai Chí Thọ với tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh Tham luận tại Hội thảo khoa học “Đại tướng Mai Chí Thọ với lực lượng Công an nhân dân Việt Nam và Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh” Tue, 12 Jul 2022 14:20:51 +0700

Trong suốt 71 năm tham gia hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, và với 68 năm là người chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Đại tướng Mai Chí Thọ đã trải qua những năm tháng đầy gian khổ, hy sinh trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dù ở cương vị và hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Với cương vị lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí luôn đồng hành, gắn bó, tạo điều kiện cho tổ chức Đoàn thực hiện tốt nhất nhiệm vụ công tác Đoàn và phong trào thanh niên, chăm lo, hỗ trợ cho thanh niên thành phố phát triển toàn diện.

Đồng chí Mai Chí Thọ tham quan triển lãm Xây dựng đường phố tại Phòng Truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 1977. Ảnh: Thanhuytphcm.vn

Trong cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí có quá trình gắn bó và trực tiếp tham gia công tác thanh niên. Bản thân đồng chí Mai Chí Thọ (chú Năm Xuân) luôn dành rất nhiều tình cảm cho công tác thanh niên và thế hệ trẻ. Trong Hồi ký “Những mẩu chuyện đời tôi”, đồng chí có chia sẻ “Vốn dĩ hoạt động trong Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên Phản đế trước Cách mạng tháng Tám, và sau Cách mạng tháng 8/1945, tôi lại hoạt động trong Thanh niên Cứu quốc rồi Thanh niên Giải phóng ở Cần Thơ, tôi vô cùng say sưa với công tác thanh niên…”. Rồi theo phân công, Đại tướng được giao trọng trách trong ngành công an và trở thành một trong những lãnh đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ở từng cương vị khác nhau, đồng chí đều có những chỉ đạo sâu sát đối với phong trào của tuổi trẻ thành phố.

1. Đồng chí Mai Chí Thọ với các cao trào đấu tranh của học sinh, sinh viên chống Mỹ - Thiệu, giai đoạn 1970 - 1972:

Trong giai đoạn 1970 - 1972, trong vai trò là Phó Bí thư Thành ủy, đồng chí rất quan tâm đối với phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Đồng chí thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo rất cụ thể, sâu sát, tình cảm, là sự động viên đối với phong trào chung. Đồng chí dành thời gian, gặp gỡ, trò chuyện trực tiếp với nhiều thanh niên cảm tình với cách mạng như Lê Văn Nghĩa, nhạc sĩ Trần Long Ẩn …

Năm 1971, đồng chí Mai Chí Thọ đã dành lời khen cho ca khúc “Người mẹ Bàn Cờ” do nhạc sĩ Trần Long Ẩn phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của Nguyễn Kim Ngân: Bài hát có phần lời thơ và âm nhạc nhẹ nhàng, sâu lắng, đi vào lòng người nhưng cũng đồng thời thể hiện được tính Đảng rất rõ nét vì có nội dung tuyên truyền, vận động quần chúng ủng hộ cho phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ ở Thành phố. Những lời động viên đó của đồng chí lãnh đạo Đảng vừa thể hiện sự quan tâm đối với phong trào sáng tác, phong trào văn hóa văn nghệ của tuổi trẻ Sài Gòn, vừa thể hiện quan điểm lãnh đạo của Đảng về nội dung, phương thức của các sáng tác trẻ một cách rất gần gũi mà sâu sắc. Chính những kỷ niệm đó đã làm cho các cán bộ trẻ của Thành Đoàn thêm kính trọng, dành nhiều tình cảm quý mến đối với chú Năm Xuân.

2. Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo Thành Đoàn chuẩn bị 5 điểm khởi nghĩa trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975:

 Tháng 4/1975, Ban Thường vụ Thành ủy chủ trương điều chỉnh các lực lượng, cánh quân để chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, hoàn thành giai đoạn chót của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đồng chí Mai Chí Thọ được phân công trực tiếp phụ trách các huyện Bình Chánh, Nhà Bè và nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Thời điểm này, Thành ủy có chủ trương tổ chức lại Thành Đoàn để chuẩn bị vào chiến dịch Hồ Chí Minh, điều động một số cán bộ Thành Đoàn biệt phái về tăng cường, bổ sung lực lượng cho các các quận, huyện ủy. Thành Đoàn chỉ còn 05 đồng chí trong Ban chấp hành. Trước tình hình đó, với niềm tin vào thanh niên, đồng chí Mai Chí Thọ đã giao nhiệm vụ Thành Đoàn tiếp tục kết nối, xây dựng cơ sở mới, phát triển các đồng chí cảm tình, đôn lên để tham gia vào các vị trí, thực hiện nhiệm vụ khởi nghĩa tại 05 địa điểm: Ngã bảy - Bàn Cờ - Vườn Chuối, Phú Nhuận - Cầu Kiệu, Gia Định - Đa Kao - Cầu Bông, Khánh Hội - Xóm Chiếu. Ngoài ra, đồng chí còn chỉ đạo thêm việc thành lập chi bộ Đảng đồng thời là Ban chỉ huy chịu trách nhiệm phát động quần chúng khởi nghĩa. Điều này thể hiện sự tin tưởng của đồng chí đối với lực lượng của Thành Đoàn, dù trong điều kiện khó khăn vẫn có thể khắc phục và hoàn thành nhiệm vụ chung của Thành ủy giao.

3. Đồng chí Mai Chí Thọ với Phong trào Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh:

Những ngày sau khi Thành phố Sài Gòn được giải phóng, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức âm nhạc của thanh niên, Thành Đoàn có chủ trương phong trào ca khúc tuổi trẻ, tức là hình thành những tốp vừa đàn vừa hát phục vụ các ca khúc cổ vũ chính trị, phong trào cách mạng, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước cho các lễ hội, đi vào công nhân, học sinh sinh viên, các công trường, nông trường. Nhiều nhóm nhạc trẻ được hình thành, trong đó có cả thành viên các ban nhạc trẻ nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975, tham gia lực lượng thanh niên xung phong thành phố. Khi nhóm nữ 30 tháng 4 được hình thành để tham dự Liên hoan các nhóm ca khúc chính trị tại Bulgaria với hình ảnh áo dài thướt tha, kết hợp đàn điện tử với bộ gõ dân tộc, đồng chí Mai Chí Thọ lúc đó trong cương vị Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố nhưng đã sắp xếp thời gian để đến dự buổi phúc khảo chương trình, động viên bằng việc hỗ trợ trang bị cho mỗi ca sĩ 03 chiếc áo dài để phục vụ việc biểu diễn ở nước bạn. Khi về nước nhóm “30 tháng 4” rất hấp dẫn thanh niên, sau đó là phong trào ca khúc chính trị nở rộ khắp nơi ở cơ sở, có nhiều nhóm tiêu biểu như: Nhóm ca khúc Câu Lạc Bộ tháng 9, nhóm nữ Sinco với Hồng Hạnh, nhóm ca khúc Thanh niên Xung phong của Nguyễn Đức Trung, Thúy Hồng, Ngọc Bích…nhóm ca khúc Đại học Tổng hợp của Hoàng Cao, nhóm Ca nhạc dân tộc Phù Sa với Ngọc Yến, Văn Tài, Ngọc Điệp… phong trào ca hát của tuổi trẻ thành phố trở nên sống động, hấp dẫn, lôi cuốn tuổi trẻ đến các lễ hội truyền thống, sân chơi tập thể lành mạnh và đến với Đoàn Thanh niên.

Tại Đại hội tổng kết 8 năm thành lập Lực lượng Thanh niên Xung phong thành phố, đồng chí đã phát biểu: “Đời sống của người Thanh niên Xung phong là một cuộc sống rộng rãi, bao la và vô cùng đẹp đẽ, khác hẳn cuộc sống ích kỷ, chỉ có mình. Đây là cuộc sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Đó chính là cuộc cách mạng văn hóa, cuộc cách mạng xây dựng con người mới của chúng ta. Cái đó không chỉ tác động trong Thanh niên Xung phong là một đội quân xung kích, một dội quân đi đầu dưới sự lãnh đạo của Đảng làm cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa trong thanh niên và tác động đến lối sống của Thành phố. Hình ảnh bộ đồ và mũ tai bèo của Thanh niên Xung phong đã có dấu ấn sâu sắc trong thanh niên và nhân dân Thành phố ta… Chiến thắng mọi khó khăn, cắm cờ lên mọi đích vinh quang và đem lại thắng lợi không chỉ cho Thanh niên Xung phong mà cho toàn Thành phố”.  

Nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập Lực lượng Thanh niên Xung phong Thành phố Hồ Chí Minh (28/3/1976 - 28/3/1986), đồng chí đã đến dự và tặng hoa, chúc mừng và gửi gắm niềm tin đối với phong trào thanh niên xung phong, thổi lên phong trào cách mạng của tuổi trẻt phố sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Đồng chí Mai Chí Thọ quan tâm chăm lo xây dựng đời sống chính trị, tinh thần của tuổi trẻ

Là người gắn bó với thanh niên, chú Năm Xuân (tên gọi thân thương khi nhắc về đồng chí Mai Chí Thọ) từng làm việc, gặp gỡ, trao đổi với nhiều đồng chí lãnh đạo, cán bộ Thành Đoàn trước và sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong ký ức của nhiều đồng chí, chú Năm Xuân luôn gần gũi, quan tâm, dành tình cảm, chăm lo đến đời sống của cán bộ, đời sống của thanh niên. Dù bận nhiều công việc tái thiết thành phố sau ngày giải phóng, đồng chí vẫn dành nhiều thời gian để lắng nghe các đồng chí lãnh đạo, cán bộ Thành Đoàn báo cáo các vấn đề của thanh niên; trực tiếp gặp gỡ và tham gia giải quyết những khó khăn của thanh niên; tham dự và động viên nhiều phong trào của thanh niên. Đến nay, nhiều đồng chí lãnh đạo phong trào thanh niên vẫn còn nhớ những lời căn dặn của đồng chí Mai Chí Thọ: làm hoạt động phong trào phải căn cơ, giải quyết được những vấn đề thực tiễn, phong trào phải gắn với quần chúng nhân dân, không máy móc, sách vở.

Mặc dù bận rộn với công việc nhưng Đại tướng Mai Chí Thọ luôn dành thời gian cho những chuyến đi, tiếp xúc, thăm hỏi, động viên những mảnh đời thiếu may mắn. Ảnh: Thanhuytphcm.vn

Sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, để chăm lo cho thanh niên, đồng chí cùng lãnh đạo Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố rất quan tâm đến đời sống tinh thần của thanh niên, đã quyết định giao nhiều địa điểm, trụ sở của Thành Đoàn, Báo Tuổi trẻ, Nhà Thiếu nhi thành phố để tạo điều kiện cho công tác tập hợp thanh niên thuận lợi hơn, phát triển các điểm hẹn văn hóa lành mạnh cho thanh thiếu nhi, giúp thế hệ trẻ tránh xa các văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại ảnh hưởng đến tâm lý, sự phát triển nhận thức của thanh thiếu nhi. Trăn trở với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển thành phố sau ngày giải phóng, đồng chí đã sớm đặt ra cho Thành Đoàn những vấn đề về giáo dục thanh niên ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng ý thức tiết kiệm, phát triển các địa điểm công cộng như công viên, nhà văn hóa để thanh niên có nơi đến vui chơi, giải trí, sinh hoạt; cán bộ Đoàn cần gắn bó với thanh thiếu nhi để thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ thanh niên khó khăn, thanh niên bị ảnh hưởng của chiến tranh.

Theo lời kể của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hải - Tác giả cuốn Hồi ký Đại tướng Mai Chí Thọ - Ký sự nhân vật [1] chia sẻ về những điều chưa viết trong hồi ký: Thật ngạc nhiên khi nghe ông nói rằng chưa hề học qua một lớp chính trị chính qui nào, chỉ có những lớp học Mác - Lênin trong tù và sau này là học trong thực tiễn đấu tranh cách mạng mà trưởng thành. Ông cũng đọc triết học phương Đông, không đi sâu kiểu học giả mà để nắm bắt vấn đề và cảm nhận cuộc sống. Nhờ vậy mà những lý lẽ của ông như từ trong tim chứ không rập khuôn theo sách vở nào cả [2]. Thế nhưng đồng chí Mai Chí Thọ đã trăn trở đối với việc giáo dục thanh niên về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tôi nghe nói sinh viên ngán học chính trị, giáo viên sợ nghe câu hỏi. Tôi nhớ ngày xưa Tây có cuốn sách tập hợp để trả lời những câu hỏi về Chủ nghĩa cộng sản. Các anh chị bên Thành Đoàn cũng tập hợp những thắc mắc của thanh niên về Chủ nghĩa xã hội thì hay biết bao” Từ những góp ý, trăn trở của đồng chí Mai Chí Thọ và các đồng chí lão thành cách mạng, nhận thức rõ vai trò trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh đã nỗ lực sáng tạo các giải pháp mới trong công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đoàn viên, thanh niên; đổi mới phương thức giảng dạy, học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua việc nỗ lực, tìm tòi, sáng tạo nhiều mô hình, giải pháp, điển hình là Hội thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “Tầm nhìn xuyên thế kỷ” (dành cho sinh viên các trường đại học, học viện, cao đẳng, trung cấp) và cuộc thi “Ánh sáng thời đại” (dành cho cán bộ, giảng viên, giáo viên trẻ) do Ban Thường vụ Thành Đoàn phối hợp với Ban Tuyên giáo Thành ủy, Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng ủy Khối Đại học - Cao đẳng Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức nhằm góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Hằng năm, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản, tái bản các tài liệu hỏi - đáp về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề ứng dụng trong thực tiễn như “Ngân hàng câu hỏi tìm hiểu Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Nhân cách Bác Hồ - Mỗi người có thể học ở Bác một số điều”, “Học sinh kể chuyện Bác Hồ”, …để thanh niên có thể tìm hiểu, giải đáp những vấn đề thắc mắc về chủ nghĩa cộng sản. Nhiều năm qua, các cấp bộ Đoàn cũng thường xuyên tổ chức các sân chơi, chương trình, hoạt động để phát triển tư duy phản biện, nâng cao nhận thức và khả năng lý luận chính trị trong đoàn viên, thanh niên; xây dựng, duy trì và nâng chất, củng cố các câu lạc bộ Lý luận trẻ; phát huy đội ngũ giảng viên, giáo viên trẻ các môn lý luận chính trị trong tham gia nâng chất việc học tập các bài học lý luận chính trị cho đoàn viên, thanh niên, sáng tạo các sản phẩm, ứng dụng công cụ hiện đại trong quá trình học tập và giảng dạy các môn lý luận chính trị; triển khai hiệu quả các đợt sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chi đoàn chủ điểm để kịp thời cung cấp thông tin, tạo diễn đàn trao đổi, bàn luận các vấn đề lý luận và thực tiễn.

Xúc động trước tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của chú dành cho tuổi trẻ thành phố, trong tang lễ của đồng chí Mai Chí Thọ, hơn 30 cán bộ Đoàn, đoàn viên đã có mặt bên linh cữu của chú, hòa nhịp bài hát “Tự nguyện” của nhạc sĩ sinh viên Trương Quốc Khánh sáng tác. Đó cũng là bài hát chú Năm Xuân thích nhất và nhiều lần đề nghị các nhạc sĩ sinh viên biểu diễn trong những dịp gặp gơ với tuổi trẻ.

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng

Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương

Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm

Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”

Noi gương đồng chí Mai Chí Thọ, khắc ghi những lời căn dặn, chia sẻ, thể hiện niềm tin của chú dành cho thế hệ trẻ thành phố, tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay tiếp tục nỗ lực, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập, nghiên cứu, phát triển và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, tình cảm, trách nhiệm, lý tưởng cách mạng cho thanh niên, đồng hành với thanh niên trong học tập, rèn luyện, phát triển toàn diện, tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xứng đáng với niềm tin yêu, kỳ vọng, tình cảm của đồng chí Mai Chí Thọ - Chú Năm Xuân đối với tuổi trẻ thành phố.

Ngày 01- 02/7/2022, Đoàn Thanh niên Công an Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức sinh hoạt truyền thống nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Đại tướng Mai Chí Thọ. Ảnh: Đoàn CATP

BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ĐOÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

-----------------

Tài liệu tham khảo:

[1] Nguyễn Thị Ngọc Hải (2018), Hồi ký “Đại tướng Mai Chí Thọ - Ký sự nhân vật”, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Nguyễn Thị Ngọc Hải (2005), Đại tướng Mai Chí Thọ và những điều chưa viết trong hồi ký, Báo Công an Nhân dân, truy cập tại https://cand.com.vn/Truyen-thong/Dai-tuong-Mai-Chi-Tho-va-nhung-dieu-chua-viet-trong-hoi-ky-i324205

* Tham luận tại Hội thảo khoa học “Đại tướng Mai Chí Thọ với lực lượng Công an nhân dân Việt Nam và Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh” của Bộ Công an và Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức ngày 12/7/2022.

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2022/7/35272/53.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/33229 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/33229 CLB Truyền thống CLB Truyền thống Thành Đoàn tham quan Khu đô thị ĐHQG-HCM Ngày 28.02.2020, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn đã tổ chức cho 32 cựu cán bộ Thành Đoàn tham quan Khu Đô thị Đại học Quốc gia và dự buổi nói chuyện chuyên đề “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Mon, 02 Mar 2020 09:38:04 +0700

Ngày 28.02.2020, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức cho 32 cựu cán bộ Thành Đoàn tham quan Khu đô thị Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và dự buổi nói chuyện chuyên đề “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn tặng sách cho Ban Giám đốc ĐHQG-HCM

Đến tham dự chương trình có đồng chí Trương Mỹ Hoa, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Cùng dự có các đồng chí: GS.TS Trần Hồng Quân - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; PGS.TS Nguyễn Tấn Phát - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Phạm Chánh Trực - nguyên Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, nguyên Chủ tịch HĐND Thành phố, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn, Trương Mỹ Lệ - Phó Chủ nhiệm Thường trực Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn.

Đoàn được PGS.TS Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Thành ủy viên, Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cùng Ban Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố tiếp đón và hướng dẫn tham quan các phòng thí nghiệm Viện Tế bào gốc trường Đại học Khoa học tự nhiên và các cơ sở đào tạo của trường Đại học Quốc tế.

Trong khuôn khổ buổi làm việc, đoàn đã tham dự buổi nói chuyện chuyên đề về “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” với các nội dung: “Giới thiệu quá trình phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp của loài người đến cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0” (PGS, TS Huỳnh Thành Đạt), “Thành tựu của Mimosatex áp dụng công nghiệp 4.0 nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cho các trang trại nông nghiệp công nghệ cao” (CEO Công ty TNHH Mimosa Technology Nguyễn Khắc Minh Trí); “Bàn về Cách mạng 4.0” (CEO&Co-founder iFactory Tạ Văn Toàn); "Robots, AL và thực tiễn ứng dụng vào ngành công nghiệp Việt Nam một cách hiệu quả nhất" (TS. Lê Hoành Sử, trường Đại học Kinh tế - Luật - ĐHQG-HCM); “Định hình Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cơ hội cho Việt Nam” (PGS.TS Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh).

Các diễn giả cũng nhận định Việt Nam đã sớm tiếp cận với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung chỉ đạo qua Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 “về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; phân tích những tác động, thời cơ và thách thức của cuộc cách mạng đến với con người, phân tích sự tương tác giữa khoa học công nghệ và những giá trị nhân văn cần quan tâm khi hoạch định chiến lược phát triển đất nước, định hướng xây dựng thế hệ mới, thế hệ 4.0.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm

Nhân dịp này, Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn đã trao tặng cho Ban Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, các diễn giả và đại biểu 10 đầu sách truyền thống Thành Đoàn được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản: “Lược sử Đoàn và phong trào Thanh niên TP. Hồ Chí Minh”, “Chúng ta đã đứng dậy” (Tập 1 và 2), “Thành Đoàn cùng quân và dân Sài Gòn - Gia Định tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh”…

HOÀNG ĐÔN NHẬT TÂN

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2020/3/33229/P2280438.JPG 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/32110 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/32110 CLB Truyền thống CLB Truyền thống Thành Đoàn: Lan tỏa ngọn lửa thanh niên đến các bạn trẻ Nhân kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 - 26/3/2019), Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn tổ chức các buổi nói chuyện về truyền thống tuổi trẻ Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định – TP. Hồ Chí Minh. Thu, 28 Mar 2019 19:30:11 +0700

Nhân kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 - 26/3/2019), Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn tổ chức các buổi nói chuyện về truyền thống tuổi trẻ Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định – TP. Hồ Chí Minh.

Giao lưu với đoàn viên Quận 5, Quận 6, Quận 9, Đại học Công nghệ thông tin, Đại học Công nghệ Sài Gòn, Đại học Y Dược, Trại tạm giam Chí Hòa, Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và 5 đơn vị trong Cụm dịch vụ…

Tham gia các hoạt động về nguồn tại Khu lưu niệm Tam Giác Sắt (Bến Cát – Bình Dương), Căn cứ Núi Dinh (Bà Rịa  - Vũng Tàu) của Đoàn Cơ quan Thành Đoàn, Báo Sài Gòn Giải Phóng và Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh.

Trong dịp này, Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn dự Lễ kết nạp Đoàn viên mới - Lớp đoàn viên 50 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và giới thiệu “Lược sử Đoàn và phong trào Thanh niên TP. Hồ Chí Minh 1954 - 1975” đến các cơ sở Đoàn, một tập sử liệu quí báu về một giai đoạn cách mạng sôi nổi quyết liệt và vẻ vang, với sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ tuổi trẻ Việt Nam.

Đoàn văn nghệ của Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn đã trình diễn văn nghệ truyền thống đặc sắc tại nhiều cơ sở Đoàn, tham gia chương trình truyền hình “Hát cho dân tôi nghe” của VTV9 sẽ phát sóng lúc 8g30 ngày chủ nhật 31/3/2019 và 8g30 ngày chủ nhật 28/4/2019 trên VTV9.

Hoàng Đôn Nhật Tân

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2019/3/32110/CLB VANNGHE.jpg 200 150
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/31804 http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/31804 Minh Tâm CLB Truyền thống Nhà Bè: Thăm căn cứ Thành Đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ tại tỉnh Long An Thu, 10 Jan 2019 21:00:59 +0700

Ngày 10/01/2019, Huyện Đoàn Nhà Bè phối hợp cùng Quận Đoàn Tân Bình, Đoàn Tổng Công ty Công nghiệp in bao bì Liksin đã đến thăm và tặng quà các gia đình chính sách vùng căn cứ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dịp Tết Kỷ Hợi 2019 tại ấp Bàu Sen, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 

Thành viên đoàn có sự tham dự của Cô Trần Phi Vân (Bí danh Ba Phi Vân), Cô Ngô Thị Cẩm Hường (Bí danh Sáu Hường) – Thành viên Câu lạc bộ truyền thống Thành Đoàn; Đ/c Trần Thanh Trà, Phó Ban Kiểm tra Thành Đoàn; Thường trực Quận Đoàn Tân Bình, Đoàn Tổng Công ty Công nghiệp in bao bì Liksin và Huyện Đoàn Nhà Bè. Về phía chính quyền địa phương có sự tham dự của Đ/c Nguyễn Thị Lý Ngân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đức Lập Hạ.

Được đến thăm Nhân dân vùng căn cứ, các thành viên trong đoàn ân cần thăm hỏi sức khỏe các cô, chú lão thành cách mạng. Đồng thời, ôn lại kỷ niệm một thời đấu tranh gian khổ, những kỷ niệm đẹp, chiến công vẻ vang của các cô, chú qua suốt chặng đường đấu tranh giành độc lập dân tộc. Không chỉ vậy, ngay sau ngày hòa bình lập lại, các cô, chú vẫn luôn là ngọn cờ tiên phong trong công cuộc xây dựng và kiến thiết quê hương đất nước.

Với truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” và nhân dịp Tết Nguyên đán Kỷ hợi 2019, Đoàn đã tặng 51 phần quà đến các cô, chú lão thành cách mạng tại địa bàn xã Đức Lập Hạ - nơi căn cứ đã nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh quật khởi, kiên trung của các cán bộ Thành Đoàn qua các thời kỳ./.

Minh Tâm

]]>
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/Content/news/2019/1/31804/IMG_9274.JPG 200 150